(Khải huyền 11:1-19)
“Bấy giờ có người ban cho tôi một cây lau giống như cây gậy, và biểu tôi rằng: Hãy đứng dậy, đo đền thờ Đức Chúa Trời, bàn thờ, và những kẻ thờ lạy tại đó. Còn sân ngoài đền thờ thì hãy để nó ra ngoài, đừng đo làm chi; vì chỗ đó đã phó cho dân ngoại, họ sẽ giày đạp thành thánh đủ bốn mươi hai tháng. Ta sẽ cho hai người làm chứng ta mặc áo bao gai đi nói tiên tri trong một ngàn hai trăm sáu mươi ngày. Hai người làm chứng ấy tức là hai cây ô-li-ve và hai chân đèn đứng trước mặt Chúa của thế gian. Nếu ai muốn làm hại hai người đó, thì có lửa ra từ miệng hai người thiêu nuốt kẻ thù nghịch mình: Kẻ nào muốn làm hại hai người thì phải bị giết như vậy. Hai người có quyền đóng trời lại, để cho trời không mưa trong những ngày mình nói tiên tri; hai người lại có quyền biến nước thành huyết và khiến các thứ tai nạn làm hại trên đất, lúc nào muốn làm cũng được cả.
Khi hai người đã làm chứng xong rồi, có con thú dưới vực sâu lên, sẽ chiến đấu cùng hai người; thú ấy sẽ thắng và giết đi. Thây hai người sẽ còn lại trên đường cái của thành lớn, gọi bóng là Sô-đôm và Ê-díp-tô, tức là nơi mà Chúa hai người cũng đã bị đóng đinh trên thập tự giá. Người ta ở các dân tộc, các chi phái, các tiếng, các nước sẽ trông thấy thây hai người trong ba ngày rưỡi, và chúng sẽ không cho chôn những thây ấy trong mồ. Các dân sự trên đất sẽ vui mừng hớn hở về hai người, và gởi lễ vật cho nhau, bởi hai tiên tri đó đã khuấy hại dân sự trên đất.
Nhưng, sau ba ngày rưỡi ấy, có sinh khí từ Đức Chúa Trời đến nhập vào trong hai người: Hai người bèn đứng thẳng dậy, và những kẻ đứng xem đều kinh hãi cả thể. Hai người nghe một tiếng lớn ở từ trên trời đến phán cùng mình rằng: Hãy lên đây! Hai người bèn lên trời trong đám mây và những kẻ thù nghịch đều trông thấy. Đồng một giờ đó, có cơn động đất lớn; một phần mười của thành đổ xuống, bảy ngàn người chết trong cơn động đất ấy, còn những kẻ khác thất kinh và ngợi khen Đức Chúa Trời trên trời. “Nạn” thứ nhì qua rồi; nầy “Nạn” thứ ba đến mau chóng. Vị thiên sứ thứ bảy thổi loa, có những tiếng lớn vang ra trên trời rằng:
Từ nay nước của thế gian thuộc về Chúa chúng ta và Đấng Christ của Ngài, Ngài sẽ trị vì đời đời. Hai mươi bốn trưởng lão đương ngồi ở trước mặt Đức Chúa Trời, trên ngai mình, đều cúi mình sấp mặt xuống, thờ lạy Đức Chúa Trời, mà rằng:
Hỡi Chúa là Đức Chúa Trời Toàn năng,
Là Đấng hiện có, trước đã có, chúng tôi cảm tạ Ngài, Vì Ngài đã cầm quyền rất cao trong tay và đã trị vì.
Các dân tộc vốn giận dữ,
Nhưng cơn thạnh nộ của Ngài đã đến:
Giờ đã tới, là giờ phán xét kẻ chết,
Thưởng cho tôi tớ Chúa là các đấng tiên tri,
Thưởng cho các thánh và các người kính sợ danh Chúa,
Thưởng cho kẻ nhỏ cùng kẻ lớn,
Và hủy phá những kẻ đã hủy phá thế gian.
Đền thờ Đức Chúa Trời bèn mở ra ở trên trời, hòm giao ước bày ra trong đền thờ Ngài, rồi có chớp nhoáng, tiếng, sấm sét, động đất và mưa đá lớn.”
Lời Khải huyền đoạn 11 rất quan trọng đối với chúng ta, cũng như mọi Lời của Đức Chúa Trời. Để hủy diệt trái đất, có một công việc quan trọng mà Đức Chúa Trời cần phải làm trước. Đó là sự ban cho dân Y-sơ-ra-ên lần cuối cùng. Đức Chúa Trời cũng có một công việc khác để làm cho người Y-sơ-ra-ên lẫn người Ngoại bang, và đó là để khiến họ tham dự trong sự phục sinh đầu tiên và thăng thiên bằng cách để họ chịu tử đạo.
Vì Kinh thánh đã cung cấp toàn bộ lý do về những vấn đề này, nên chúng ta cần phải tìm ra sự cứu rỗi, sự tha thứ tội lỗi của Đức Chúa Trời được làm trọn như thế nào trong Tân ước. Kinh thánh nói với chúng ta về những chủ đề này vì nếu chúng ta không xem xét chúng cẩn thận thì chúng ta có thể bị lầm lẫn về các tín đồ, đầy tớ của Đức Chúa Trời và dân Y-sơ-ra-ên được chép trong Sách Khải huyền.
Giải thích
Câu 1: Bấy giờ có người ban cho tôi một cây lau giống như cây gậy, và biểu tôi rằng: “Hãy đứng dậy, đo đền thờ Đức Chúa Trời, bàn thờ, và những kẻ thờ lạy tại đó.
Điều này nói với chúng ta rằng công tác cứu người Y-sơ-ra-ên khỏi tội lỗi bởi ân điển của Đức Chúa Trời hiện nay đang bắt đầu. “Đo” ở đây có nghĩa là chính Đức Chúa Trời sẽ can thiệp vào việc cứu dân Y-sơ-ra-ên khỏi tội lỗi của họ trong thời kỳ cuối cùng.
Trong phân đoạn chính của đoạn 11, chúng ta phải đặt sự chú ý của chúng ta trên sự cứu rỗi dân Y-sơ-ra-ên khỏi tội lỗi. Lời này nói với chúng ta rằng Phúc âm Nước và Thánh linh sẽ được rao truyền ra cho dân Y-sơ-ra-ên từ đó, dấu hiệu bắt đầu công việc của Đức Chúa Trời mà khiến dân Y-sơ-ra-ên trở thành dân sự của Đức Chúa Trời đã giải cứu họ khỏi mọi tội lỗi qua ân điển của sự cứu rỗi do Đức Chúa Jêsus Christ ban cho. Đức Chúa Trời chép Khải huyền đoạn 11-cũng để ban sự tha tội của Ngài cho dân Y-sơ-ra-ên trong thời kỳ cuối cùng. “Đo lường” trong câu 1 và 2 có ý nghĩa là sắp đặt tiêu chuẩn cho mọi thứ. Mục đích của Đức Chúa Trời trong việc đo Đền thờ của Ngài sẽ tìm thấy, đã có chương trình sẵn sàng để cứu dân Y-sơ-ra-ên, cho dù lòng họ có sẵn sàng để nhận sự cứu rỗi của họ hay không. Và nếu lòng họ chưa sẵn sàng, thì điều đó khiến cho họ sẵn sàng, để vì đó mà lòng của họ có thể đứng thẳng.
Câu 2: “Còn sân ngoài đền thờ thì hãy để nó ra ngoài, đừng đo làm chi; vì chỗ đó đã phó cho dân ngoại, họ sẽ giày đạp thành thánh đủ bốn mươi hai tháng.”
Đức Chúa Trời đã ban cho Sa-tan quyền giày xéo người Ngoại bang trong vòng ba năm rưỡi. Vì thế, tất cả người Ngoại bang phải nhận vào lòng họ Phúc âm Nước và Thánh linh, Lời của sự mua chuộc, càng sớm càng tốt trong vòng ba năm rưỡi đầu của 7 năm Đại Nạn. Lịch sử của thế giới này sẽ kết thúc khi giữa giai đoạn Đại Nạn qua đi và bước vào nửa giai đoạn thứ hai. Thời gian sẽ sớm đến trong tương lai gần khi tất cả người Ngoại bang, cũng như các tín đồ đã được cứu khỏi mọi tội lỗi của họ, sẽ bị Sa-tan giày xéo.
Người Ngoại bang phải nhận sự tha tội của họ và chuẩn bị đức tin của họ cho sự tử đạo trước khi ba năm rưỡi đầu của thời kỳ Đại Nạn đi qua họ. Vào lúc đó, người Y-sơ-ra-ên cũng sẽ khổ sở dưới Đại Nạn đáng sợ trong suốt ba năm rưỡi đầu. Nhưng vào lúc đó họ cũng sẽ tiếp nhận sự thật rằng Chúa Jêsus là Cứu Chúa của họ. Cuối cùng, dân Y-sơ-ra-ên sẽ nhận được sự cứu rỗi khỏi mọi tội lỗi của họ trong thời gian ba năm rưỡi đầu của thời kỳ Đại Nạn. Chúng ta phải nhận biết rằng Đức Chúa Trời sẽ cho phép sự tha tội đến với dân Y-sơ-ra-ên ngay cả trong suốt thời kỳ Đại Nạn.
Câu 3: “Ta sẽ cho hai người làm chứng ta mặc áo bao gai đi nói tiên tri trong một ngàn hai trăm sáu mươi ngày.”
Đức Chúa Trời sẽ đặc biệt đưa ra hai chứng nhận như là đầy tớ của Ngài cho dân Y-sơ-ra-ên. Hai tiên tri mà Đức Chúa Trời sẽ đưa đến cho dân Y-sơ-ra-ên có quyền gấp hai lần những nhà tiên tri xưa, và qua lời chứng của họ, Đức Chúa Trời sẽ bắt đầu làm việc trong vòng dân Y-sơ-ra-ên để vì đó mà họ có thể tiếp nhận Đức Chúa Jêsus Christ là Cứu Chúa của họ. Qua những công việc của hai tiên tri này, nhiều người Y-sơ-ra-ên sẽ trở nên dân sự thật sự tái sanh của Đức Chúa Trời.
Bởi hai tiên tri, là những người Đức Chúa Trời sai đến trong thời kỳ cuối cùng để cứu dân Y-sơ-ra-ên khỏi tội lỗi của họ, làm những phép lạ và điều kỳ diệu, Ngài sẽ khiến dân Y-sơ-ra-ên, là những người bấy giờ sẽ được những tiên tri này hướng dẫn, trở lại với Đấng Christ và tin Ngài là Cứu Chúa của họ. Hai tiên tri này sẽ cung cấp Lời của Đức Chúa Trời cho dân Y-sơ-ra-ên trong 1.260 ngày trong suốt ba năm rưỡi đầu của thời kỳ Đại Nạn. Bởi ban Phúc âm Nước và Thánh linh cho dân Y-sơ-ra-ên và khiến họ tin nơi đó, Đức Chúa Trời sẽ ban cho họ sự cứu rỗi khỏi mọi tội lỗi của họ cũng giống như đối với những người Ngoại bang của thời Tân ước qua đức tin.
Câu 4: Hai người làm chứng ấy tức là hai cây ô-li-ve và hai chân đèn đứng trước mặt Chúa của thế gian.
“Hai cây Ô-li-ve” ở đây tượng trưng cho hai tiên tri của Đức Chúa Trời (Khải huyền 11:10). Mặt khác, “Hai chân đèn” tượng trưng cho Hội thánh của Đức Chúa Trời mà Ngài đã tìm thấy trong vòng người Ngoại bang, và Hội thánh mà Ngài ban cho dân Y-sơ-ra-ên. Đức Chúa Trời đã xây dựng Hội thánh của Ngài trong vòng người Do-thái lẫn chúng ta người Ngoại bang, và Ngài sẽ tiếp tục làm công việc cứu rỗi những linh hồn hư mất khỏi tội lỗi cho đến ngày cuối cùng.
Bởi “hai cây Ô-li-ve” và “hai chân đèn”, Đức Chúa Trời nói với chúng ta rằng cũng như Ngài đã dựng nên những tiên tri của Ngài trong thời Cựu ước để cứu dân Y-sơ-ra-ên khỏi tội lỗi của họ và đã hành động qua những tiên tri này bằng cách phán bảo với họ, khi thời kỳ cuối cùng đến, Ngài cũng sẽ dựng nên từ dân Y-sơ-ra-ên hai tiên tri là những người sẽ giảng dạy Lời của Ngài và dẫn dân Y-sơ-ra-ên đến với Chúa Jêsus qua những tiên tri này.
Dân Y-sơ-ra-ên đã không coi trọng những đầy tớ của Đức Chúa Trời, những người vốn là người Ngoại bang, và họ không nghe điều mà những đầy tớ này nói với họ. Vì họ biết mọi điều về hệ thống tế lễ và các tiên tri của thời Cựu ước, nên những tiên tri của Đức Chúa Trời trong thời kỳ cuối cùng cần phải được dựng nên từ trong chính dân Y-sơ-ra-ên của họ. Dân Y-sơ-ra-ên rất hiểu biết về Kinh thánh nên họ có thể đọc thuộc lòng cả Torah cho dù họ đang chạy. Đây là tại sao họ không bao giờ tin điều mà những đầy tớ Ngoại bang của Đức Chúa Trời nói với họ.
Nhưng những đầy tớ của Đức Chúa Trời, nghe Phúc âm Nước và Thánh linh mà bạn và tôi hiện nay đang giảng dạy, sẽ nổi lên từ trong chính dân họ. Khi những người tin nơi Phúc âm Nước và Thánh linh nổi lên từ chính bọn họ, và từ họ nổi lên hai tiên tri do Đức Chúa Trời thiết lập, là những người sẽ giải thích và giảng dạy Lời của Đức Chúa Trời cho họ, chỉ khi đó dân Y-sơ-ra-ên mới sẽ tin.
Dân Y-sơ-ra-ên sẽ biết rằng hai chứng nhân này là những tiên tri được sai và đưa đến từ chính Đức Chúa Trời để cứu họ khỏi tội lỗi của họ trong thời kỳ cuối cùng. Những tiên tri này sẽ thực hiện quyền năng phi thường của họ, cũng như các đầy tớ của Đức Chúa Trời trong thời Cựu ước đã thực hiện trước đây. Vì thế dân Y-sơ-ra-ên sẽ chính mắt nhìn thấy quyền năng kỳ diệu mà hai chứng nhân này thực hiện. Từ đó, dân Y-sơ-ra-ên sẽ trở lại với Đức Chúa Jêsus Christ và tin nơi Chúa. Khi họ nhận biết Đức Chúa Jêsus Christ là Con của Đức Chúa Trời và Cứu Chúa của họ, cũng như chúng ta vậy, họ sẽ có cùng niềm tin như chúng ta – đó là, họ cũng sẽ được cứu bởi tin nơi Phúc âm Nước và Thánh linh.
Hai chứng nhân này sẽ giải thích Lời của Đức Chúa Trời và cung cấp Lời đó cho dân Y-sơ-ra-ên trong 1.260 ngày trong suốt thời gian 7 năm Đại Nạn. Cũng như bạn và tôi, là những người Ngoại bang của thời Tân ước, đã được cứu bởi tin nơi Phúc âm Nước và Thánh linh, Đức Chúa Trời cũng sẽ cho phép dân Y-sơ-ra-ên được cứu trong thời kỳ cuối cùng bởi tin nơi Phúc âm Nước và Thánh linh này.
Như câu 4 nói với chúng ta, “Hai người làm chứng ấy tức là hai cây ô-li-ve và hai chân đèn đứng trước mặt Chúa của thế gian.” Kinh thánh gọi hai chứng nhân này là “hai cây Ô-li-ve.” Hai cây Ô-li-ve tượng trưng cho hai tiên tri của thời kỳ cuối cùng. Trong câu 10 chép, “Các dân sự trên đất sẽ vui mừng hớn hở về hai người, và gởi lễ vật cho nhau, bởi hai tiên tri đó đã khuấy hại dân sự trên đất.”
Ở đây, chúng ta phải làm sáng tỏ Lời này bằng cách tập trung vào việc ai là hai cây Ô-li-ve này.
Những cây Ô-li-ve được dùng trong thời Cựu ước để thánh hóa những dụng cụ của nơi tôn nghiêm và hành lang Đền thờ Đức Chúa Trời bằng cách dùng dầu của chúng để thoa lên. Dầu ô-li-ve này cũng được dùng cho những mục đích khác nữa, như để đốt những cây đèn của Đền thờ. Họ chỉ được dùng dầu ô-li-ve nguyên chất trong Đền thờ. Đức Chúa Trời không cho phép dùng bất cứ loại dầu nào trong Đền thờ của Ngài, nhưng Ngài phải biết chắc rằng chỉ dầu ô-li-ve được dùng mà thôi. Vì thế, chúng ta phải biết rằng cây ô-li-ve, cũng như cây vả, tượng trưng cho dân Y-sơ-ra-ên.
Có nhiều cách giải thích về hai cây ô-li-ve và hai chân đèn này. Một số người thậm chí cho rằng chính họ là những cây ô-li-ve này. Nhưng hai cây ô-li-ve tượng trưng cho những người được xức dầu. Trong thời Cựu ước, người ta được xức dầu khi họ là một tiên tri, vua hay một thầy tế lễ. Khi người đó được xức dầu, thì Đức Thánh Linh sẽ đáp đậu trên họ. Như thế, cây ô-li-ve tượng trưng cho Đức Chúa Jêsus Christ là Đấng được thụ thai bởi Đức Thánh Linh (Rô-ma 11:24). Nhưng người ta có nhiều sự hiểu biết sai lầm về điểm này.
Tuy nhiên, hai cây ô-li-ve, là hai chứng nhân được nhắc đến trong suốt phân đoạn chính, tượng trưng cho hai đầy tớ của Đức Chúa Trời, là người mà Ngài đặc biệt chọn ra trong thời kỳ cuối cùng vì sự cứu rỗi của dân Y-sơ-ra-ên.
Đấy là điều mà câu 4 nói với chúng ta. Và hai chân đèn ở đây tượng trưng cho Hội thánh của Đức Chúa Trời mà Ngài đã ban cho trong vòng người Ngoại bang, và Hội thánh ban cho người Y-sơ-ra-ên. Trong thời Cựu ước, dân Y-sơ-ra-ên vốn có Hội thánh của Đức Chúa Trời. Nhưng từ thời Tân ước, họ không còn Hội thánh của Đức Chúa Trời nữa. Tại sao? Bởi vì họ không nhận Đức Chúa Jêsus Christ, và cũng không có Đức Thánh Linh trong lòng họ.
Vì họ đã không tiếp nhận Phúc âm Nước và Thánh linh cũng như Đức Chúa Jêsus Christ, nên không còn tìm thấy Hội thánh của Đức Chúa Trời trong vòng họ nữa. Tuy nhiên, trước khi thế giới kết thúc, trong ba năm rưỡi đầu của thời kỳ Đại Nạn, Đức Chúa Trời sẽ ban Hội thánh cho dân Y-sơ-ra-ên. Đây là tại sao Kinh thánh nói với chúng ta về hai cây ô-li-ve, chính là hai chứng nhân.
Chúa sẽ thành lập Hội thánh của Ngài và thực hiện công tác cứu rỗi linh hồn của Ngài trong vòng người Do-thái lẫn người Ngoại bang chúng ta. Và qua những hội thánh này, Ngài sẽ khiến họ phục vụ công tác thuộc linh cứu rỗi những linh hồn khỏi tội lỗi cho đến khi Anti-christ xuất hiện. Điều này có nghĩa rằng Đức Chúa Trời sẽ làm ra những bình gốm từ trong những tín đồ của Ngài, những thành viên của Hội thánh Ngài, để khiến họ phục sự chức vụ cứu những linh hồn hư mất khỏi tội lỗi. Vì thế chúng ta phải siêng năng thực hiện chức vụ còn lại của chúng ta trong đức tin.
Câu 5: Nếu ai muốn làm hại hai người đó, thì có lửa ra từ miệng hai người thiêu nuốt kẻ thù nghịch mình: Kẻ nào muốn làm hại hai người thì phải bị giết như vậy.
Đức Chúa Trời đã ban quyền phép này cho hai tiên tri để vì thế mà họ có thể thực hiện sứ mệnh đặc biệt của họ. Để khiến dân Y-sơ-ra-ên ăn năn và chiến thắng Sa-tan trong thời kỳ cuối cùng, Đức Chúa Trời đã bày tỏ cho chúng ta rằng ai tìm cách giết hai chứng nhân này thì chính họ sẽ bị tổn hại, và rằng quyền phép của Lời Đức Chúa Trời sẽ ở với hai chứng nhân này.
Như thế, dân Y-sơ-ra-ên, vì tin nơi sự dạy dỗ của hai tiên tri này, sẽ trở lại với Đức Chúa Jêsus Christ. Đây là tại sao Đức Chúa Trời ban hai cây ô-li-ve – nghĩa là hai chứng nhân - dân Y-sơ-ra-ên để vì thế mà họ có thể được cứu khỏi tội lỗi của họ trong thời kỳ cuối cùng này.
Câu 6: Hai người có quyền đóng trời lại, để cho trời không mưa trong những ngày mình nói tiên tri; hai người lại có quyền biến nước thành huyết và khiến các thứ tai nạn làm hại trên đất, lúc nào muốn làm cũng được cả.
Bởi vì dân Y-sơ-ra-ên sẽ không ăn năn trừ khi những đầy tớ của Đức Chúa Trời, là những người mà Ngài đưa ra cho họ thực hiện những việc quyền phép, Đức Chúa Trời sẽ cho phép hai tiên tri này làm việc với quyền phép của Ngài. Hai tiên tri này sẽ không chỉ dẫn dân Y-sơ-ra-ên đến với Chúa Jêsus, nhưng họ cũng sẽ chiến thắng kẻ thù của Đức Chúa Trời bằng quyền phép và làm trọn mọi công tác trong sự kêu gọi của họ. Đức Chúa Trời sẽ ban cho họ quyền năng đặc biệt để nhờ đó họ có thể giảng dạy mọi Lời tiên tri cho dân Y-sơ-ra-ên, làm chứng rằng Đức Chúa Jêsus Christ là Đấng Mê-si mà họ chờ đợi lâu nay, và khiến họ tin.
Câu 7: Khi hai người đã làm chứng xong rồi, có con thú dưới vực sâu lên, sẽ chiến đấu cùng hai người; thú ấy sẽ thắng và giết đi.
Lời này nói với chúng ta rằng Anti-christ sẽ xuất hiện trong thế giới khi ba năm rưỡi đầu của thời kỳ 7 năm Đại nạn trôi qua. Vào thời gian này những người tin Đức Chúa Jêsus Christ là Đấng Mê-si đang mong đợi của họ cuối cùng sẽ nổi lên từ dân Y-sơ-ra-ên. Nhưng nhiều người trong số họ sẽ bị tử đạo để bảo vệ đức tin của họ khỏi Con thú, nghĩa là Anti-christ, và những kẻ theo hắn. Hai tiên tri của Đức Chúa Trời cũng sẽ chịu tử đạo khi họ toàn tất những công tác trong sự kêu gọi của họ.
Việc hai chứng nhân này sẽ bị Anti-christ giết là dựa theo ý muốn của Đức Chúa Trời. Tại sao? Bởi vì Đức Chúa Trời cũng muốn ban cho họ phần thưởng tử đạo của Ngài. Phần thưởng này cho họ để dự phần trong sự phục sinh đầu tiên, tham dự với Chúa trong bữa tiệc cưới Chiên Con, vui mừng mãi mãi và nhận được sự sống đời đời. Để ban phước hạnh này cho mọi tín đồ, Đức Chúa Trời muốn họ chịu tử đạo vì đức tin của họ. Vì thế mọi tín đồ không được sợ cũng như tránh sự tử đạo của họ, nhưng ngược lại mang lấy nó trong đức tin quả quyết và nhận phần thưởng phước hạnh của họ.
Câu 8: Thây hai người sẽ còn lại trên đường cái của thành lớn, gọi bóng là Sô-đôm và Ê-díp-tô, tức là nơi mà Chúa hai người cũng đã bị đóng đinh trên thập tự giá.
Câu này nói với chúng ta rằng “hai chứng nhân” chính là ra từ dân Y-sơ-ra-ên. Hai đầy tớ mà Đức Chúa Trời sẽ đưa đến cho dân Y-sơ-ra-ên không phải ra từ người Ngoại bang, nhưng từ chính dân tộc Y-sơ-ra-ên của họ. Như thế, hai chứng nhân sẽ bị giết cùng nơi mà Chúa Jêsus đã chịu đóng đinh. Sự thật này nói với chúng ta cách rõ ràng rằng hai chứng nhân này là người Y-sơ-ra-ên. Đối với dân Y-sơ-ra-ên, họ là những đầy tớ của Đức Chúa Trời.
Đối với dân Y-sơ-ra-ên, những người giống dân thành Sô-đôm và thành Ê-díp-tô về thuộc linh, Đức Chúa Trời sẽ thiết lập hai tiên tri của Ngài, ban cho họ quyền phép và khiến họ làm chứng rằng Chúa Jêsus là Đấng Mê-si mà dân Y-sơ-ra-ên đang trông đợi, để nhờ đó mà dân Y-sơ-ra-ên có thể ăn năn và tin Chúa Jêsus.
Anti-christ sẽ giết hai đầy tớ của Đức Chúa Trời tại Gô-gô-tha, nơi mà Chúa Jêsus chịu đóng đinh. Vì những kẻ đi theo Anti-christ có thuộc linh gian ác, nên họ sẽ căm ghét hai chứng nhân này là những người tin Chúa Jêsus và làm chứng về Ngài. Như những người lính La-mã, là những người đã đóng đinh Chúa Jêsus và đâm hông Ngài với cây giáo trước đây, những người với tâm linh độc ác này chẳng những chỉ ghét Chúa Jêsus, nhưng họ cũng sẽ ghét hai chứng nhân của Đức Chúa Trời và giết họ.
Câu 9: Người ta ở các dân tộc, các chi phái, các tiếng, các nước sẽ trông thấy thây hai người trong ba ngày rưỡi, và chúng sẽ không cho chôn những thây ấy trong mồ.
Trong vòng người Y-sơ-ra-ên cũng vậy, có những người không tin Đức Chúa Jêsus Christ là Cứu Chúa của họ. Nhìn thấy hai thân thể chết của hai đầy tớ (hai cây ô-li-ve), những người này sẽ tràn ngập cảm giác chiến thắng, thậm chí họ sẽ không chôn cất nạn nhân của họ đàng hoàng nữa. Nhưng thắng lợi của họ sẽ tan thành từng mãnh vụn khi Đức Chúa Trời làm cho “hai chứng nhân” sống dậy, và vì thế họ sẽ kinh sợ Đức Chúa Trời.
Họ có thể chúc mừng họ vì sự chết của hai đầy tớ Đức Chúa Trời này, nhưng nó sẽ không tồn tại lâu, vì họ sẽ sớm nhận ra rằng Anti-christ không phải là đối thủ của Đức Chúa Jêsus Christ – sự thất vọng và trống không sẽ vì đó tràn ngập trong họ.
Những người này không thích Lời tiên tri của Đức Chúa Trời do hai tiên tri này giảng dạy. Bởi chống nghịch lại hai đầy tớ mà Đức Chúa Trời đưa đến, nên họ chắc chắn sẽ bị loại khỏi mùa gặt cuối cùng của sự cứu rỗi này và cuối cùng sẽ trở nên đầy tớ của Sa-tan.
Câu 10: Các dân sự trên đất sẽ vui mừng hớn hở về hai người, và gởi lễ vật cho nhau, bởi hai tiên tri đó đã khuấy hại dân sự trên đất.
Vì họ sẽ giảng dạy Lời tiên tri của Đức Chúa Trời, nên hai chứng nhân được đưa đến vì sự cứu rỗi của dân Y-sơ-ra-ên sẽ là một sự đau nhức lớn trên cổ của những người đi theo Sa-tan. Như thế, họ sẽ hoàn toàn vui mừng với sự chết của hai chứng nhân này và gởi tặng quà để chúc mừng nhau.
Chúng ta cũng vui vẻ khi những người làm phiền chúng ta biến mất. Anti-christ và những người theo hắn sẽ rất ghét khi hai chứng nhân do Đức Chúa Trời đưa đến giảng dạy Lời của Ngài. Mọi khi họ nghe Lời của Đức Chúa Trời, tâm linh của họ sẽ đầy dẫy sự thống khổ. Vì họ sẽ bị giày vò khi hai chứng nhân nói với họ về Chúa Jêsus, họ sẽ vui mừng khi họ thấy hai chứng nhân bị Anti-christ giết chết. Đó là lý do tại sao họ sẽ trao đổi quà và chúc mừng nhau.
Câu 11: Nhưng, sau ba ngày rưỡi ấy, có sinh khí từ Đức Chúa Trời đến nhập vào trong hai người: Hai người bèn đứng thẳng dậy, và những kẻ đứng xem đều kinh hãi cả thể.
Tuy nhiên, Đức Chúa Trời sẽ khiến hai chứng nhân này dự phần trong sự phục sinh đầu tiên. Lời này là một bằng chứng hiển nhiên rằng các tín đồ, những người chịu tử đạo để bảo vệ đức tin của họ sau khi được cứu khỏi tội lỗi bởi tin nơi Lời cứu rỗi do Chúa ban cho, sẽ tham dự trong sự sống lại đầu tiên.
Việc sinh khí sự sống nhập vào họ trong “ba ngày rưỡi” nói với chúng ta rằng Chúa sẽ cho phép họ sống lại trong thời gian ngắn, cũng giống như chính Ngài đã sống lại trong xác thịt từ cõi chết. Việc Đức Chúa Trời ban cho mọi tín đồ đức tin của sự sống lại đầu tiên này, một ơn phước lớn của Đức Chúa Trời, nhưng không phải cho mọi tội nhân, sẽ đem đến cho họ sự ngã lòng và sợ hãi lớn.
Câu 12: Hai người nghe một tiếng lớn ở từ trên trời đến phán cùng mình rằng: Hãy lên đây! Hai người bèn lên trời trong đám mây và những kẻ thù nghịch đều trông thấy.
Lời này chỉ ra sự sống lại và thăng thiên của mọi tín đồ. Bởi tin nơi Lời tiên tri của Chúa, những người đã được cứu khỏi mọi tội lỗi của họ sẽ không còn chọn lựa nào khác hơn là chịu tử đạo để bảo vệ đức tin của họ. Câu này bày tỏ cho chúng ta rằng Chúa sẽ phục sinh tất cả những tín đồ này và cất họ lên. Các tín đồ và đầy tớ của Đức Chúa Trời, là những người chịu tử đạo trong sự trung tín với Ngài sẽ được phước bởi được cất lên không trung (thăng thiên) vì đức tin của họ nơi Chúa. Chúng ta không thể không cảm tạ Chúa đã ban cho chúng ta sự sống lại và thăng thiên như là phần thưởng vì chịu tử đạo sau khi được cứu bởi tin nơi sự tha thứ tội lỗi mà Chúa ban cho chúng ta.
Đức Chúa Cha sẽ ban sự sống lại và thăng thiên cho tất cả những ai chống lại Anti-christ và chịu tử đạo bởi tin nơi Phúc âm Nước và Thánh linh do Đức Chúa Jêsus Christ ban cho. Chúng ta phải tin nơi sự thật này. Sự sống lại và thăng thiên của các tín đồ là ơn phước tuôn tràn từ sự cứu rỗi của họ qua đức tin nơi Phúc âm Nước và Thánh linh do Đức Chúa Trời ban cho. Sa-tan và những kẻ theo hắn trong thời kỳ cuối cùng sẽ thấy rằng mọi nổ lực của họ biến mất trong không khí khi họ nhìn thấy các tín đồ, là những người mà họ đã bắt bớ và giết đi, được phục sinh và thăng thiên.
Đức Chúa Trời sẽ phục sinh và thăng thiên những tín đồ tử dạo, nhưng Ngài sẽ hủy diệt những người vẫn còn lại trên đất bằng cách đổ tai họa của 7 cái bát xuống. Khi công việc này nhanh chóng hoàn tất, thì Ngài sẽ trở lại thế gian này với các tín đồ và mời những người công chính dự tiệc cưới của Đấng Christ. Chúa chúng ta sẽ để bữa tiệc này kéo dài trong một ngàn năm. Khi ngàn năm này kết thúc, Ngài sẽ cho phép Sa-tan nổi lên từ vực sâu không đáy trong thời gian ngắn để chống nghịch lại Đức Chúa Trời và các tín đồ của Ngài, nhưng Ngài chắc chắn sẽ hủy diệt Sa-tan và những kẻ đi theo hắn và xử chúng bị quăng vào hồ lửa đời đời. Ngược lại, những người công chính sẽ bước vào Nước Trời và sống với Chúa ở đó đời đời.
Câu 13: Đồng một giờ đó, có cơn động đất lớn; một phần mười của thành đổ xuống, bảy ngàn người chết trong cơn động đất ấy, còn những kẻ khác thất kinh và ngợi khen Đức Chúa Trời trên trời.
Sau sự tử đạo, phục sinh và sự thăng thiên của hai tiên tri mà Đức Chúa Trời đưa đến vì sự cứu rỗi của dân Y-sơ-ra-ên, Ngài sẽ cho phép các thiên sứ của Ngài đổ tai họa của 7 cái bát xuống trái đất này. Những người vẫn còn lại trên đất sau khi các tín đồ thăng thiên sẽ nhận lấy tai họa 7 cái bát này như là món quà của họ. Chỉ khi đó họ mới nắm lấy sự sợ hãi và qui vinh hiển cho Đức Chúa Trời, nhưng điều này không còn ích lợi gì cho họ nữa, vì nó không còn là hành động của đức tin thật trong tình yêu của Đức Chúa Trời.
Khi thế giới này bị hủy diệt, người công chính sẽ nhận được Thiên đàng, sự phục sinh và những phước hạnh đời đời, trong khi đó những tội nhân chỉ khổ sở đời đời trong hỏa ngục đang chờ đợi họ. Đấây là tại sao mọi người phải nhận được sự tha thứ tội lỗi của họ bởi tin nơi Phúc âm Nước và Thánh linh. Và vì những người đã được mua chuộc tội lỗi của họ tin nơi thế giới mới mà Đức Chúa Trời đã hứa cho họ nên họ giảng dạy Phúc âm Nước và Thánh linh cho mọi người.
Câu 14: “Nạn” thứ nhì qua rồi; nầy “Nạn” thứ ba đến mau chóng.
Đối với người Ngoại bang lẫn người Y-sơ-ra-ên, nạn thứ ba mà Đức Chúa Trời đưa đến đang chờ đợi họ ngoại trừ những người đã tham dự trong sự phục sinh và thăng thiên vì đã được cứu và chịu tử đạo.
Tai họa vừa qua từ tiếng kèn ống loa thứ sáu của thiên sứ là để bắt đầu tai họa 7 cái bát với tiếng kèn của ống loa thứ 7 được gọi là nạn thứ hai. Những tai họa của 7 ống loa được chia ra làm ba thời kỳ – đầu tiên, chính giữa và cuối cùng. Những thảm họa thiên nhiên và sự tử đạo của các tín đồ bởi Anti-christ được bao gồm trong nạn thứ nhất và nạn thứ hai. Mặt khác, nạn thứ ba là tai họa sẽ hủy diệt thế giới hoàn toàn. Nạn thứ ba này là những cái bát, cơn giận của Đức Chúa Trời sẽ đổ xuống những tội nhân vẫn còn ở lại trên đất.
Câu15: “Vị thiên sứ thứ bảy thổi loa, có những tiếng lớn vang ra trên trời rằng: Từ nay nước của thế gian thuộc về Chúa chúng ta và Đấng Christ của Ngài, Ngài sẽ trị vì đời đời!”
Nhóm từ “có những tiếng lớn vang ra từ trời” bày tỏ cho chúng ta rằng các tín đồ và đầy tớ đã được cứu khỏi mọi tội lỗi đã ở trên Thiên đàng khi tai họa 7 cái bát bắt đầu trên thế giới này. Như thế, vào lúc đó dân sự của Đức Chúa Trời không còn tìm thấy trên thế giới này nữa. Chúng ta phải nhận biết điều này. “Từ nay nước của thế gian thuộc về Chúa chúng ta và Đấng Christ của Ngài, Ngài sẽ trị vì đời đời!”
Vào lúc này, các tín đồ ở trên Trời sẽ ngợi khen Chúa, nhưng sau mọi tai họa của 7 cái bát được đổ xuống, họ sẽ cùng với Chúa ngự xuống đất mới và cai trị với Ngài trong một ngàn năm trên thế giới này. Sau đó điều này sẽ được nối tiếp bởi Chúa và các tín đồ cai trị đời đời trong Trời mới Đất mới.
Để giải cứu chúng ta khỏi mọi tội lỗi, Chúa đã phục vụ chúng ta như một đầy tớ trong lúc này, thay vì cai trị chúng ta như Vua. Ngài đã ban cho chúng ta ân điển của Ngài, khiến những người tin Phúc âm Nước và Thánh linh là sự cứu rỗi của họ trở thành con cái của Đức Chúa Trời. Vì Chúa chúng ta là Vua đời đời của chúng ta, nên Ngài cũng có thể khiến dân sự của Ngài cai trị đời đời. Ha-lê-lu-gia. Tạ ơn Chúa!
Câu 16: Hai mươi bốn trưởng lão đang ngồi ở trước mặt Đức Chúa Trời, trên ngai mình, đều cúi mình sấp mặt xuống, thờ lạy Đức Chúa Trời.
Đức Chúa Trời đáng được mọi sự vinh hiển. Những người đã được cứu khỏi mọi tội lỗi của họ phải nên xấp mặt mình xuống thờ phượng và ngợi khen Đức Chúa Trời. Chúa chúng ta, Đấng đã thực hiện mọi công tác cứu rỗi tội nhân này, đáng được sự ngợi khen và thờ phượng từ tất cả các tín đồ và mọi tạo vật cho đến đời đời.
Câu 17: mà rằng: Hỡi Chúa là Đức Chúa Trời Toàn năng, là Đấng Hiện Có, Trước Đã Có, chúng tôi cảm tạ Ngài, vì Ngài đã cầm quyền rất cao trong tay và đã trị vì.”
Để từ đó cùng cai trị với dân sự của Ngài, Chúa chúng ta sẽ chiến thắng Sa-tan và nhận được quyền phép lớn từ Đức Chúa Cha. Như thế, Chúa sẽ cai trị đời đời. Ngài đáng được làm như thế. Tôi dâng sự vinh hiển cho Ngài, vì Chúa, Đấng đã khiến mọi tội lỗi của thế gian mất đi, Đấng đã cứu tất cả những người tin nơi Phúc âm Nước và Thánh linh, và là Đấng đoán phạt kẻ thù của Ngài, đáng được nhận lấy quyền phép oai nghi và cai trị đời đời. Như thế, những ai nhận biết quyền tối cao của Đức Chúa Trời sẽ được mặc lấy sự vinh hiển ngợi khen Đức Chúa Trời đời đời cùng với quyền phép toàn năng và tình yêu của Chúa.
Câu 18: “Các dân tộc vốn giận dữ, nhưng cơn thạnh nộ của Ngài đã đến: giờ đã tới, là giờ phán xét kẻ chết, thưởng cho tôi tớ Chúa là các đấng tiên tri, thưởng cho các thánh và các người kính sợ danh Chúa, thưởng cho kẻ nhỏ cùng kẻ lớn, và hủy phá những kẻ đã hủy phá thế gian.”
Cùng lúc đổ xuống tai họa 7 cái bát bấy giờ là sự hủy diệt thể xác của những người Ngoại bang thuộc linh sẽ đến. Lời này nói với chúng ta rằng khi đó sẽ là thời điểm mà Đức Chúa Trời đoán xét mọi người như là Quan Án của mọi người, Ngài sẽ tưởng thưởng những tín đồ, tiên tri, đầy tớ của Ngài và những người tôn thờ Ngài, và hủy diệt những ai chống nghịch và bất tuân ý muốn của Ngài. Chúa sẽ đổ cơn giận đoán xét của Ngài trên những người không nhận biết sự tối cao của Ngài, nhưng Ngài sẽ cho phép những tín đồ được vinh hiển với Ngài. Điều này có nghĩa rằng Chúa sẽ trở nên Quan Án của mọi người, người tốt lẫn người xấu.
Khi Chúa ngồi lên ngai của Ngài như là Vua của những người tái sanh và đoán xét mọi người, thì mọi tội nhân và người công chính của thế gian sẽ nhận được sự đoán xét công bằng của họ. Lúc đó, như lời tuyên án của Ngài, Chúa sẽ ban Thiên đàng và sự sống đời đời cho các tín đồ, nhưng Ngài sẽ ban sự hủy diệt đời đời và hình phạt nơi hỏa ngục cho những tội nhân. Sự tối cao của Đức Chúa Jêsus Christ và ơn cai trị của dân sự Ngài sẽ tiếp tục cho đến đời đời. Vào lúc đó thế giới đầu tiên sẽ kết thúc và thế giới thứ hai - Nước của Đấng Christ sẽ từ đó bắt đầu.
Câu 19: Đền thờ Đức Chúa Trời bèn mở ra ở trên trời, hòm giao ước bày ra trong đền thờ Ngài, rồi có chớp nhoáng, tiếng, sấm sét, động đất và mưa đá lớn.
Đức Chúa Trời sẽ cho phép các tín đồ của Ngài, những người công chính, được ơn sống trong Đền thờ của Ngài. Mọi điều này được làm trọn theo như Lời hứa của Đức Chúa Trời đối với nhân loại trong Đức Chúa Jêsus Christ. Nước Đức Chúa Trời bắt đầu với lời tiên tri của Ngài, và nó sẽ hoàn tất bởi sự làm trọn lời tiên tri này.
Mọi lời hứa của Đức Chúa Trời, từ sự phục sinh, thăng thiên của các tín đồ đến sự dự phần trong tiệc cưới Chiên Con với Đức Chúa Jêsus Christ và ơn phước cai trị đời đời như những vua chúa, được ban như nhau cho người Y-sơ-ra-ên và người Ngoại bang chúng ta. Cũng vậy, Ngài ban sự cứu rỗi của dân Y-sơ-ra-ên trong thời kỳ cuối cùng và sự cứu rỗi của chúng ta như nhau, khiến cả hai đều chịu tử đạo vào thời điểm này, cho phép chúng ta cùng sống lại và thăng thiên sau đó, và mặc cho chúng ta sự vinh hiển như nhau. Lời này nói với chúng ta rằng dù dân Y-sơ-ra-ên và người Ngoại bang chúng ta là những dân tộc khác nhau về thể xác, tuy nhiên chúng ta đều là dân sự của Đức Chúa Trời trong thuộc linh.
Nhiều người nói và tin rằng những người tái sanh sẽ được thăng thiên trước khi thời kỳ 7 năm Đại Nạn bắt đầu. Nhưng điều này không đúng. Kinh thánh nói rằng người ta sẽ tiếp tục nghe về Phúc âm thật và được cứu trong ba năm rưỡi đầu của thời kỳ Đại Nạn. Sau đó Anti-christ sẽ xuất hiện, các tín đồ sẽ chịu tử đạo, và sau sự sống lại và thăng thiên của họ sẽ đến tiệc cưới Chiên Con của Đấng Christ, cho phép các tín đồ đồng cai trị với Ngài trong một ngàn năm.
Các tín đồ phải có một sự hiểu biết chính xác về thời gian tử đạo, sống lại và thăng thiên của họ. Không biết về thời gian này, họ sẽ tiếp tục đi lạc trong sự mập mờ và thuộc linh sẽ chết ở đó.
Những người có sự hiểu biết đúng đắn về thời kỳ cuối cùng sẽ trông đợi sự sống lại và thăng thiên của họ, và sẽ siêng năng phục vụ Phúc âm. Những người biết rằng không có hi vọng nào nơi thế gian này phải có cùng trông đợi như những người tái sanh bằng cách tin nơi Phúc âm Nước và Thánh linh. Và những tín đồ chịu tử đạo bởi tin nơi Lời Đức Chúa Trời.
Đức tin có thể nhận thức được thời gian vô cùng cần thiết trong thời đại nay. Thời gian những tai họa đáng sợ và những sự thử thách đổ trên toàn thế giới và sự xuất hiện của Anti-christ đã sắp đến. Hiện nay là thì để chúng ta thức tỉnh từ giấc ngủ của chúng ta. Chúng ta phải nhớ rằng chúng ta phải trải qua hầu hết tất cả những thử thách của thời kỳ Đại Nạn. Và chúng ta cần phải tin nơi sự trở lại của Đấng Christ, tin nơi sự sống lại và thăng thiên, tin nơi việc dự phần trong tiệc cưới Chiên con với Đấng Christ của chúng ta. Để chúng ta có đức tin đúng đắn nhất trong thời đại này, chúng ta phải bước vào con thuyền Phúc âm Nước và Thánh linh.
Tôi hi vọng và cầu nguyện rằng bởi hiểu biết thời đại hiện tại này, bạn sẽ có đức tin tối cần thiết và đúng đắn nhất trong thời đại này.