(Khải huyền 21:1-27)
"Đoạn, tôi thấy trời mới và đất mới; vì trời thứ nhất và đất thứ nhất đã biến đi mất, và biển cũng không còn nữa. Tôi cũng thấy thành thánh, là Giê-ru-sa-lem mới, từ trên trời, ở nơi Đức Chúa Trời mà xuống, sửa soạn sẵn như một người vợ mới cưới trang sức cho chồng mình. Tôi nghe một tiếng lớn từ nơi ngai mà đến, nói rằng: nầy, đền tạm của Đức Chúa Trời ở giữa loài người! Ngài sẽ ở với chúng, và chúng sẽ làm dân Ngài; chính Đức Chúa Trời sẽ ở với chúng. Ngài sẽ lau ráo hết nước mắt khỏi mắt chúng, sẽ không có sự chết, cũng không có than khóc, kêu ca, hay là đau đớn nữa; vì những sự thứ nhất đã qua rồi. Đấng ngự trên ngôi phán rằng: Nầy, ta làm mới lại hết thảy muôn vật. Đoạn, lại rằng: Hãy chép; vì những lời nầy đều trung tín và chân thật. Ngài lại phán cùng tôi rằng: Xong rồi! Ta là An-pha và Ô-mê-ga, nghĩa là đầu tiên và cuối cùng. Kẻ nào khát, ta sẽ lấy nước suối sự sống mà ban cho nhưng không. Kẻ nào thắng sẽ được những sự ấy làm cơ nghiệp, ta sẽ làm Đức Chúa Trời người và người sẽ làm con ta. Còn những kẻ hèn nhát, kẻ chẳng tin, kẻ đáng gớm ghét, kẻ giết người, kẻ dâm loạn, kẻ phù phép, kẻ thờ thần tượng, và phàm kẻ nào nói dối, phần của chúng nó ở trong hồ có lửa và diêm cháy bừng bừng: đó là sự chết thứ hai. Một vị trong bảy thiên sứ đã cầm bảy bát đựng đầy bảy tai nạn cuối cùng, đến gần tôi, bảo rằng: Hãy đến, ta sẽ chỉ cho ngươi thấy người vợ mới cưới là vợ Chiên Con. Rồi tôi được Thánh Linh cảm động, thiên sứ đó đưa tôi đến trên một hòn núi lớn và cao, và chỉ cho tôi thấy thành thánh, là Giê-ru-sa-lem, từ trên trời, ở nơi Đức Chúa Trời mà xuống, rực rỡ vinh hiển của Đức Chúa Trời. Sự chói sáng của thành ấy giống như của một viên bửu thạch, như bích ngọc sáng suốt. Thành có một bức tường cao lớn, với mười hai cửa, trên những cửa có mười hai vị thiên sứ, cùng những danh đề, là danh mười hai chi phái của con cháu Y-sơ-ra-ên: phía đông có ba cửa; phía bắc có ba cửa; phía nam có ba cửa; phía tây có ba cửa. Còn tường của thành có mười hai cái nền, tại trên có đề mười hai danh, là danh mười hai sứ đồ của Chiên Con. Đấng nói cùng ta tay cầm một cái thước, tức là cây sậy bằng vàng để đo thành, các cửa và tường của thành. Thành làm kiểu vuông và bề dài cùng bề ngang bằng nhau. Thiên sứ đo thành bằng cây sậy: thành được một vạn hai ngàn ếch-ta-đơ; bề dài, bề ngang, và bề cao cũng bằng nhau. Người lại đo tường thành: được một trăm bốn mươi bốn cu-đê, là thước đo của loài người, và cũng là thước đo của thiên sứ. Tường thì xây bằng bính ngọc, thành thì xây bằng vàng ròng, tợ như thủy tinh trong vắt. Những nền tường thành thì trang sức đủ thứ ngọc. Nền thứ nhất, bằng bích ngọc; nền thứ nhì, bằng đá lam bửu; nền thứ ba, bằng lục mã não; nền thứ tư, bằng đá lục cẩm; nền thứ năm, bằng hồng mã não; nền thứ sáu, bằng đá hoàng ngọc; nền thứ bảy bằng ngọc hoàng bích, nền thứ tám, bằng ngọc thủy thương; nền thứ chín, bằng ngọc hồng bích; nền thứ mười, bằng ngọc phỉ túy; nền thứ mười một, bằng đá hồng bửu; nền thứ mười hai, bằng đá tử bửu. Mười hai cửa thì làm bằng mười hai hột châu; mỗi cửa bằng một hột châu nguyên khối làm thành. Đường trong thành làm bằng vàng ròng, giống như thủy tinh trong suốt. Ở đó, tôi không thấy đền thờ nào; vì Chúa là Đức Chúa Trời toàn năng và Chiên Con đều là đền thờ của thành. Thành cũng không cần mặt trời, mặt trăng để soi sáng; vì vinh hiển của Đức Chúa Trời chói lói cho, và Chiên Con là ngọn đèn của thành. Các dân sẽ đi giữa sự sáng thành đó và các vua trên đất sẽ đem vinh hiển mình vào đó. Những cửa thành ban ngày không đóng, vì ở đó không có ban đêm. Người ta sẽ đem vinh hiển và phú quí của các dân đến đó; kẻ ô uế, người làm điều gớm ghiếc và nói dối không hề được vào thành; nhưng chỉ có những kẻ đã biên tên trong sách sự sống của Chiên Con."
Giải thích
Câu 1: Đoạn, tôi thấy trời mới và đất mới; vì trời thứ nhất và đất thứ nhất đã biến đi mất, và biển cũng không còn nữa.
Lời này có nghĩa là Đức Chúa Trời Chúa chúng ta sẽ ban Trời mới và Đất mới của Ngài như là món quà cho các tín đồ đã dự phần trong sự phục sinh đầu tiên. Từ đó trở đi, các tín đồ sẽ không sống trong trời và đất đầu tiên nữa, nhưng sẽ sống trong trời và đất thứ hai mới. Ơn phước này là sự ban cho của Đức Chúa Trời mà Ngài sẽ ban cho các tín đồ của Ngài. Đức Chúa Trời sẽ ban ơn phước như thể chỉ cho những tín đồ đã tham dự trong sự sống lại đầu tiên.
Nói cách khác, những người được hưởng ơn phước này là những tín đồ đã nhận được sự tha tội bởi tin nơi Phúc âm Nước và Thánh linh do Đấng Christ ban cho. Chúa chúng ta là Chú Rể của các tín đồ. Từ đó trở đi, tất cả những việc đang chờ đợi các cô dâu là được mặc lấy sự bảo vệ, ơn phước và quyền năng của Chú Rể như là những cô dâu của Chú Rể Chiên Con, và sống vinh hiển trong Nước vinh quang của Ngài.
Câu 2: Tôi cũng thấy thành thánh, là Giê-ru-sa-lem mới, từ trên trời, ở nơi Đức Chúa Trời mà xuống, sửa soạn sẵn như một người vợ mới cưới trang sức cho chồng mình.
Đức Chúa Trời đã chuẩn bị một thành phố thánh cho các tín đồ. Thành phố này là thành phố Giê-ru-Sa-tan-lem mới, một Cung Điện Thánh của Đức Chúa Trời. Và điều này đã được dự tính trong Đức Chúa Jêsus Christ cho các tín đồ, ngay cả trước khi Đức Chúa Trời, Chúa chúng ta sáng tạo vũ trụ. Vì thế các tín đồ không thể không tạ ơn Đức Chúa Trời vì sự ban cho ân điển của Ngài và dâng mọi sự vinh hiển lên cho Ngài với đức tin của họ.
Câu 3: Tôi nghe một tiếng lớn từ nơi ngai mà đến, nói rằng: nầy, đền tạm của Đức Chúa Trời ở giữa loài người! Ngài sẽ ở với chúng, và chúng sẽ làm dân Ngài; chính Đức Chúa Trời sẽ ở với chúng.
Từ đó trở đi, các tín đồ được sống với Chúa trong Đền thờ của Đức Chúa Trời cho đến đời đời. Mọi điều này là bởi ân điển của Đức Chúa Trời, một sự ban cho mà các tín đồ sẽ nhận vì đức tin của họ nơi Lời cứu rỗi của Nước và Thánh linh. Tất cả những người được bao phủ trong ơn điển được bước vào Đền thờ của Chúa và sống với Ngài sẽ cảm tạ và dâng sự vinh hiển cho Chúa đời đời.
Câu 4: Ngài sẽ lau ráo hết nước mắt khỏi mắt chúng, sẽ không có sự chết, cũng không có than khóc, kêu ca, hay là đau đớn nữa; vì những sự thứ nhất đã qua rồi.
Bấy giờ vì Đức Chúa Trời ở với các tín đồ, nên không còn những giọt nước mắt đau buồn, cũng như không có sự than vãn vì bị mất người thân, cũng như không có sự khóc lóc trong sự đau khổ nữa.
Mọi sự đau khổ của trời và đất đầu tiên sẽ biến mất từ cuộc sống của các tín đồ, và điều chờ đợi các tín đồ là sống cuộc sống phước hạnh và vinh hiển với Đức Chúa Trời của họ nơi Trời mới và Đất mới của Ngài. Đức Chúa Trời là Chúa chúng ta, vì trở nên Đức Chúa Trời của các tín đồ, sẽ khiến mọi việc và mọi sự trở nên mới, vì thế sẽ không còn những giọt nước mắt đau buồn cũng như sự chết hay sự than khóc hoặc bệnh tật hay bất cứ điều gì làm họ đau khổ trên trái đất đầu tiên nữa.
Câu 5: Đấng ngự trên ngôi phán rằng: Nầy, ta làm mới lại hết thảy muôn vật. Đoạn, lại rằng: Hãy chép; vì những lời nầy đều trung tín và chân thật.
Bấy giờ Chúa sẽ khiến mọi sự trở nên mới, và tạo dựng một trời mới đất mới. Làm cho mọi tạo vật của Ngài trong trời và đất đầu tiên biến mất, Ngài sẽ dựng nên trời và đất mới thứ hai. Điều mà câu này nói với chúng ta không phải là Đức Chúa Trời sẽ tái tạo lại sự cũ, nhưng ngược lại Ngài sẽ tạo dựng một vũ trụ mới. Ngài sẽ tạo dựng Trời mới Đất mới và sống với các tín đồ. Các tín đồ đã dự phần trong sự phục sinh đầu tiên sẽ cũng dự phần trong ơn phước này. Đây là điều mà con người không bao giờ mơ tới với ý nghĩ của họ, nhưng đây là điều mà Đức Chúa Trời đã chuẩn bị cho các tín đồ của Ngài. Vì thế mọi tín đồ và mọi vật dâng mọi sự vinh hiển, tạ ơn, ngợi khen và tôn kính lên cho Đức Chúa Trời vì công tác vĩ đại này.
Câu 6: Ngài lại phán cùng tôi rằng: Xong rồi! Ta là An-pha và Ô-mê-ga, nghĩa là đầu tiên và cuối cùng. Kẻ nào khát, ta sẽ lấy nước suối sự sống mà ban cho nhưng không.
Đức Chúa Trời, Chúa chúng ta đã dự bị và làm trọn mọi điều này từ lúc ban đầu cho đến cuối cùng. Mọi điều mà Chúa đã làm, Ngài làm vì chính Ngài và vì các tín đồ của Ngài. Bấy giờ các tín đồ được gọi là “ những người thuộc về Đấng Christ”, và được trở nên dân sự của Đức Chúa Trời. Những người trở thành tín đồ của Đức Chúa Trời bởi tin nơi Phúc âm Nước và Thánh linh bấy giờ nhận biết rằng mặc dù họ dâng sự tạ ơn và ngợi khen lên Đức Chúa Trời đời đời, họ vẫn không thể cảm tạ Ngài đủ tình yêu và công việc của Đức Chúa Trời.
“Kẻ nào khát, ta sẽ lấy nước suối sự sống mà ban cho nhưng không.” Trong Trời mới và Đất mới, Chúa chúng ta đã ban nguồn nước sống cho các tín đồ. Đây là sự ban cho lớn nhất trong những sự mà Đức Chúa Trời đã ban cho các tín đồ của Ngài. Bấy giờ các tín đồ được sống đời đời trong Trời mới Đất mới và uống nước từ nguồn nước sự sống, là nước sẽ làm cho họ không bao giờ khát nữa. Nói các khác, các tín đồ trở thành con cái của Đức Chúa Trời, là những người có sự sống đời đời, cũng như Đức Chúa Trời, và sống trong sự vinh hiển của Ngài. Một lần nữa tôi dâng sự cảm tạ và vinh hiển lên cho Đức Chúa Trời, Chúa chúng ta đã ban cho chúng ta phước lớn này. Ha-lê-lu-gia!
Câu 7: Kẻ nào thắng sẽ được những sự ấy làm cơ nghiệp, ta sẽ làm Đức Chúa Trời người và người sẽ làm con ta.
“Ai chiến thắng” ở đây tượng trưng cho những người đã được bảo vệ đức tin của họ do Chúa ban cho. Đức tin này cho phép các tín đồ chiến thắng thế gian và kẻ thù của Đức Chúa Trời. Đức tin của chúng ta nơi Đức Chúa Trời và nơi tình yêu thật của Phúc âm Nước và Thánh linh do Ngài ban cho là điều làm cho chúng ta chiến thắng mọi tội lỗi của thế gian, thoát khỏi sự đoán phạt của Đức Chúa Trời, chiến thắng kẻ thù của chúng ta, chiến thắng sự yếu đuối của chúng ta và chiến thắng sự bắt bớ của Anti-christ.
Tôi dâng sự cảm tạ và ngợi khen lên Đức Chúa Trời Chúa chúng ta vì đã ban cho chúng ta sự chiến thắng trên tất cả. Những tín đồ tin nơi Đức Chúa Trời có khả năng chiến thắng Anti-christ với đức tin của họ. Đối với mỗi một người tín đồ chúng ta, Đức Chúa Trời, Chúa chúng ta đã ban đức tin này, là đức tin mà họ có thể hoàn toàn chiến thắng trong cuộc chiến của họ chống lại mọi kẻ thù của họ.
Bấy giờ Đức Chúa Trời cho phép các tín đồ, là những người đã chiến thắng thế gian và Anti-christ với đức tin của họ, cai trị Trời mới Đất mới của Ngài. Đức Chúa Trời Chúa chúng ta đã ban đức tin chiến thắng cho các tín đồ của Ngài để họ có thể cai trị Nước Ngài. Bởi vì Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta đức tin để chiến thắng Anti-christ, nên hiện nay Đức Chúa Trời trở nên Đức Chúa Trời của chúng ta, và chúng ta trở nên con cái của Ngài. Tôi dâng sự cảm tạ và ngợi khen lên Đức Chúa Trời Chúa chúng ta vì đã ban cho chúng ta đức tin chiến thắng mọi kẻ thù của chúng ta.
Câu 8: Còn những kẻ hèn nhát, kẻ chẳng tin, kẻ đáng gớm ghét, kẻ giết người, kẻ dâm loạn, kẻ phù phép, kẻ thờ thần tượng, và phàm kẻ nào nói dối, phần của chúng nó ở trong hồ có lửa và diêm cháy bừng bừng: đó là sự chết thứ hai.
Trong thực chất của Ngài, Chúa chúng ta là Đức Chúa Trời của lẽ thật và là Đức Chúa Trời của tình yêu. Vậy thì ai vốn là những người hèn nhát trước mặt Đức Chúa Trời? Họ là những người được sinh ra trong tội lỗi và những người chưa được tẩy sạch mọi tội lỗi của họ với Lời của Phúc âm Nước và Thánh linh do Chúa ban cho. Bởi vì thực chất họ vốn thờ phượng ma-quỷ hơn là thờ phượng Đức Chúa Trời, họ đã trở thành đầy tớ của Sa-tan. Bởi vì họ thờ phượng ma quỷ trước mặt Đức Chúa Trời, và vì họ yêu và đi theo sự tối tăm hơn là sự sáng láng, nên họ chỉ là những kẻ hèn nhát trước mặt Đức Chúa Trời.
Thực chất Đức Chúa Trời là ánh sáng. Nên một sự thật được thiết lập là những người ở trong sự tối tăm sẽ sợ hãi Đức Chúa Trời. Vì linh hồn của những người thuộc về Sa-tan yêu sự tối tăm, họ là những kẻ hèn nhát trước mặt Đức Chúa Trời, Đấng của ánh sáng. Đây là tại sao họ phải đem sự xấu xa và tội lỗi của họ đến với Đức Chúa Trời để nhận được sự tha tội từ nơi Ngài.
Những người “không tin” là những người vốn có tấm lòng không tin nơi tình yêu của Đức Chúa Trời Chúa chúng ta và không tin nơi Phúc âm Nước và Thánh linh của Ngài, là kẻ thù của Ngài và là những trọng tội trước mặt Đức Chúa Trời. Linh hồn của họ thuộc về sự xấu xa, và họ chống nghịch lại Đức Chúa Trời, thờ phượng mọi loại thần tượng, và nói mọi sự giả dối. Vì thế, bởi sự đoán phạt công chính của Đức Chúa Trời tất cả bọn họ sẽ bị quăng vào trong hồ lửa và diêm cháy bừng bừng. Đây là sự hình phạt của sự chết lần thứ hai của họ.
Đức Chúa Trời không ban Trời mới và Đất mới của Ngài cho những ngươi hèn nhát trước mặt Ngài, những người không tin nơi Phúc âm Nước và Thánh linh của Ngài, và những người xấu xa, đã trở thành đầy tớ của Sa-tan. Ngược lại, Chúa chúng ta chỉ ban cho họ sự hình phạt đời đời của Ngài, quăng tất cả bọn họ (bao gồm những kẻ giết người, những người tà dâm, những thầy phù thủy, những người thờ thần tượng, và tất cả nhửng kẻ giả dối) vào trong hồ lửa và diêm cháy bừng bừng. Địa ngục, là nơi Đức Chúa Trời sẽ ban cho họ, là sự chết thứ hai của họ.
Câu 9: Một vị trong bảy thiên sứ đã cầm bảy bát đựng đầy bảy tai nạn cuối cùng, đến gần tôi, bảo rằng: Hãy đến, ta sẽ chỉ cho ngươi thấy người vợ mới cưới là vợ Chiên Con.
Một trong những thiên sứ đổ một trong những tai họa của 7 cái bát nói với Giăng rằng, “Hãy đến, ta sẽ chỉ cho người cô dâu, là vợ của Chiên Con.” “Vợ của Chiên Con” ở đây tượng trưng cho những người trở thành những cô dâu của Đức Chúa Jêsus Christ bởi tin nơi Phúc âm Nước và Thánh linh do Ngài ban cho.
Câu 10-11 Rồi tôi được Thánh Linh cảm động, thiên sứ đó đưa tôi đến trên một hòn núi lớn và cao, và chỉ cho tôi thấy thành thánh, là Giê-ru-sa-lem, từ trên trời, ở nơi Đức Chúa Trời mà xuống, rực rỡ vinh hiển của Đức Chúa Trời. Sự chói sáng của thành ấy giống như của một viên bửu thạch, như bích ngọc sáng suốt.
“Thành thánh lớn Giê-ru-sa-lem” tượng trưng cho Thánh Thánh mà các tín đồ sẽ sống với Chú Rể của họ. Thành mà Giăng thấy thật là đẹp đẽ và tuyệt vời. Nó to lớn bệ vệ, từ trong ra ngoài được tô điểm bởi những hòn đá quý sáng chói. Thiên sứ đó chỉ cho Giăng nơi những cô dâu của Đức Chúa Jêsus Christ sẽ sống với Chú Rể của họ. Thành Thánh Giê-ru-sa-lem từ trời này là sự ban cho mà Đức Chúa Trời sẽ ban cho vợ của Chiên Con.
Thành Giê-ru-sa-lem sáng chói rực rỡ và ánh sáng của nó giống như viên đá quý, như một viên bửu thạch, và trong sáng như thủy tinh. Vì thế, đối với những ai sống trong đó, sự vinh hiển của Đức Chúa Trời ở với họ đời đời. Nước Đức Chúa Trời sáng láng như thế đó, cho nên chỉ có những người đã được tẩy sạch mọi sự tối tăm, yếu đuối và tội lỗi của họ mới có thể được vào trong Thành đó. Như thế, tất cả chúng ta phải tin rằng để chúng ta được vào trong Thành Thánh, chúng ta phải học, biết và tin nơi Lời lẽ thật của Nước Thánh linh mà Chúa đã ban cho chúng ta.
Câu 12: Thành có một bức tường cao lớn, với mười hai cửa, trên những cửa có mười hai vị thiên sứ, cùng những danh đề, là danh mười hai chi phái của con cháu Y-sơ-ra-ên:
Những cánh cửa của Thành này được mười hai thiên sứ canh giữ, và trên họ có viết tên mười hai chi phái của con cháu I-sơ-ra-ên. Thành này có “một bức tường cao lớn,” nói với chúng ta rằng con đường vào Thành thánh này thật khó khăn. Được cứu khỏi mọi tội lỗi của chúng ta trước mặt Đức Chúa Trời là điều không thể xảy ra bởi những nổ lực của con người hay bởi những thứ thuộc về vật chất thế gian mà Đức Chúa Trời tạo dựng.
Để được giải cứu khỏi mọi tội lỗi của chúng ta và để được vào trong Thành Thánh của Đức Chúa Trời, chắc chắn đòi hỏi chúng ta ta phải có cùng niềm tin với mười hai môn đồ của Chúa Jêsus, là niềm tin- tin nơi lẽ thật của Phúc âm Nước và Thánh linh. Như thế, ai không có đức tin nơi Phúc âm Nước và Thánh linh này không bao giờ có thể vào được Thành Thánh này. Đây là tại sao mười hai thiên sứ được Đức Chúa Trời chỉ định canh giữ những cánh cửa của Thành này.
Mặt khác, nhóm từ, “những tên viết trên họ,” nói với chúng ta rằng những chủ nhân của Thành này đã được chọn lựa. Những chủ nhân của nó không ai khác hơn là Đức Chúa Trời và dân sự của Ngài, vì Thành này thuộc về dân sự của Đức Chúa Trời, là những người hiện nay đã trở nên con cái của Ngài.
Câu 13: phía đông có ba cửa; phía bắc có ba cửa; phía nam có ba cửa; phía tây có ba cửa.
Vì ba cửa được đặt ở hướng đông, nên hướng bắc, nam và tây của nó cũng có ba cửa. Điều này bày tỏ cho chúng ta rằng chỉ có những người đã nhận được sự tha thứ tội lỗi bởi tin nơi Phúc âm Nước và Thánh linh với lòng của họ mới có thể vào Thành này.
Câu 14: Còn tường của thành có mười hai cái nền, tại trên có đề mười hai danh, là danh mười hai sứ đồ của Chiên Con.
Những hòn đá lớn được dùng để làm nền của những tòa nhà hoặc dinh thự. Từ “đá” được dùng trong Kinh thánh tượng trưng cho đức tin nơi Đức Chúa Trời Chúa chúng ta. Câu này nói với chúng ta rằng để vào Thành Thánh của Đức Chúa Trời, chúng ta phải có đức tin mà Ngài đã ban cho nhân loại, đức tin tin nơi sự mua chuộc trọn vẹn của Ngài khỏi mọi tội lỗi của chúng ta. Đức tin của các tín đồ quý báu hơn cả những hòn đá quý của Thành Thánh. Câu này nói với chúng ta rằng tường Thành được xây trên mười hai cái nền, và trên những nền đó có ghi tên mười hai sứ đồ của Chiên Con. Điều này nói với chúng ta rằng Thành của Đức Chúa Trời chỉ cho phép những người có cùng đức tin với mười hai môn đồ của Đức Chúa Jêsus Christ đã có mà thôi.
Câu 15 Đấng nói cùng ta tay cầm một cái thước, tức là cây sậy bằng vàng để đo thành, các cửa và tường của thành.
Lời này có nghĩa rằng để vào Thành do Đức Chúa Trời xây dựng, người đó phải có đức tin được Ngài công nhận, loại đức tin mang đến cho người ấy sự cứu rỗi. Điều này có nghĩa rằng chúng ta phải tin rằng Chúa chúng ta đã ban cho chúng ta mọi ơn phước trong vòng Phúc âm Nước và Thánh linh. Vì, “Đức tin là sự biết chắc vững vàng của những điều mình đang trông mong (Hê-bơ-rơ 11:1),” Đức Chúa Trời thật đã ban cho chúng ta Thành Thánh và Trời mới Đất mới, là những điều lớn hơn cả điều mà chúng ta trông mong.
Câu 16: Thành làm kiểu vuông và bề dài cùng bề ngang bằng nhau. Thiên sứ đo thành bằng cây sậy: thành được một vạn hai ngàn ếch-ta-đơ; bề dài, bề ngang, và bề cao cũng bằng nhau.
Thành được làm kiểu vuông, bề dài, bề rộng và bề ngang bằng nhau. Điều này nói với chúng ta rằng chúng ta phải có đức tin được tái sanh như dân sự của Đức Chúa Trời bởi tin nơi Phúc âm Nước và Thánh linh. Quả thật, Chúa chúng ta không cho phép bất cứ ai không có chính xác loại đức tin nơi Phúc âm Nước và Thánh linh vào trong Nước Đức Chúa Trời.
Có nhiều người có một khái niệm mơ hồ rằng họ sẽ vào Thành Thánh chỉ bởi là Cơ-đốc-nhân, cho dù họ vẫn còn tội lỗi. Nhưng Chúa chúng ta đã ban sự cứu rỗi khỏi tội lỗi, ban Đức Thánh Linh và đã chỉ khiến những ai tin nơi lẽ thật rằng Ngài đã tha thứ mọi tội lỗi của họ qua Báp-tem của Ngài trên đất này và huyết Ngài trên Thập tự giá trở nên dân sự Ngài. Đây là loại đức tin mà Chúa đòi hỏi nơi chúng ta.
Câu 17: Người lại đo tường thành: được một trăm bốn mươi bốn cu-đê, là thước đo của loài người, và cũng là thước đo của thiên sứ.
Con số bốn theo ý nghĩa Kinh thánh là sự đau khổ. Đức tin mà Chúa đòi hỏi nơi cho chúng ta là một điều gì đó mà không một ai có thể có, nhưng đức tin này chỉ có thể có bởi ai đó chấp nhận Lời cỉa Đức Chúa Trời, dù cho họ không hoàn toàn hiểu nó với những tư tưởng riêng của họ. Một Cơ-đốc nhân không thể vào Thành Thánh chỉ bởi tin vào Thập-tự giá của Chúa Jêsus, và tin Chúa là Đức Chúa Trời và Cứu Chúa. Bạn có biết Chúa muốn nói gì khi Ngài phán trong Giăng 3:5, “Quả thật, quả thật, Ta nói cùng ngươi, nếu một người chẳng nhờ nước và Thánh Linh mà sanh thì không được vào Nước Đức Chúa Trời,” Bạn có biết ý nghĩa mà Chúa đến thế gian này, chịu Báp-tem bởi Giăng, mang tội của thế gian đến Thập tự giá, đổ huyết Ngài ra là gì không? Nếu bạn có thể trả lời câu hỏi này, thì bạn đã hiểu tôi muốn nói gì ở đây.
Câu 18: Tường thì xây bằng bính ngọc, thành thì xây bằng vàng ròng, tợ như thủy tinh trong vắt.
Câu này nói với chúng ta rằng đức tin cho phép chúng ta vào Thành Thánh của Đức Chúa Trời là tinh khiết và không có vướng bẩn điều gì của thế gian cả.
Câu 19-20: Những nền tường thành thì trang sức đủ thứ ngọc. Nền thứ nhất, bằng bích ngọc; nền thứ nhì, bằng đá lam bửu; nền thứ ba, bằng lục mã não; nền thứ tư, bằng đá lục cẩm; nền thứ năm, bằng hồng mã não; nền thứ sáu, bằng đá hoàng ngọc; nền thứ bảy bằng ngọc hoàng bích, nền thứ tám, bằng ngọc thủy thương; nền thứ chín, bằng ngọc hồng bích; nền thứ mười, bằng ngọc phỉ túy; nền thứ mười một, bằng đá hồng bửu; nền thứ mười hai, bằng đá tử bửu.
Nền của tường Thành được tô điểm bởi đủ loại đá quý. Lời này nói với chúng ta rằng chúng ta có thể được nuôi dưỡng với đủ khía cạnh khác nhau của đức tin từ Lời của Chúa chúng ta. Và những viên đá quý này bày tỏ cho chúng ta những loại ơn phước mà Chúa chúng ta sẽ ban cho các tín đồ của Ngài.
Câu 21: Mười hai cửa thì làm bằng mười hai hột châu; mỗi cửa bằng một hột châu nguyên khối làm thành. Đường trong thành làm bằng vàng ròng, giống như thủy tinh trong suốt.
Trong Kinh thánh ngọc châu ngụ ý nói về “Lẽ thật” (Ma-thi-ơ 13:46). Một người thực sự đi tìm lẽ thật sẵn lòng từ bỏ mọi của cải vật chất của anh/chị ấy để có được Lẽ thật đã ban cho anh/chị ấy sự sống đời đời. Câu này nói với chúng ta rằng các tín đồ sẽ vào Thành Thánh cần phải có nhiều kiên nhẫn trong khi ở trên đất này, nắm chặt vào giữa trung tâm của đức tin họ nơi lẽ thật. Nói cách khác, những người tin nơi Lời lẽ thật do Đức Chúa Trời phán bảo cần phải có thật nhiều sự kiên nhẫn để bảo vệ đức tin của họ.
Câu 22-23: Ở đó, tôi không thấy đền thờ nào; vì Chúa là Đức Chúa Trời toàn năng và Chiên Con đều là đền thờ của thành. Thành cũng không cần mặt trời, mặt trăng để soi sáng; vì vinh hiển của Đức Chúa Trời chói lói cho, và Chiên Con là ngọn đèn của thành.
Câu này có nghĩa rằng tất cả các tín đồ sẽ được Đức Chúa Jêsus Christ ôm vào trong cánh tay Ngài, Vua của các vua. Và Thành Thánh Giê-ru-sa-lem không cần ánh sáng của mặt trời hay mặt trăng đầu tiên, vì Đức Chúa Jêsus Christ là ánh sáng của thế gian, sẽ soi sáng nó.
Câu 24: Các dân sẽ đi giữa sự sáng thành đó và các vua trên đất sẽ đem vinh hiển mình vào đó.
Câu này nói với chúng ta rằng những người sống nơi Vương Quốc Ngàn Năm bấy giờ sẽ vào trong Trời mới Đất mới. “Các vua của thế gian” ở đây tượng trưng cho các tín đồ đã sống trong Vương Quốc Ngàn Năm. Câu này tiếp tục, những vua thế gian này, “sẽ mang sự vinh hiển và tôn quý vào đó.” Điêàu này nói với chúng ta rằng các tín đồ đã sống trong thân thể vinh hiển của họ bấy giờ sẽ chuyển từ Vương Quốc Ngàn Năm đến Trời mới Đất mới mà Đức Chúa Trời đã tạo dựng.
Như thế, chỉ có những người đã tái sanh bởi tin nơi Phúc âm Nước và Thánh linh trong khi ở trên đất này và vì thế được thăng thiên để sống trong Nước của Đấng Christ trong một ngàn năm mới có thể vào trong Thành Thánh Giê-ru-sa-lem.
Câu 25: Những cửa thành ban ngày không đóng, vì ở đó không có ban đêm.
Bởi vì Trời mới và Đất mới, là vị trí của Thành Thánh, đã đầy ngập ánh sáng thánh, nên không có ban đêm cũng như không có những sự gian ác.
Câu 26: Người ta sẽ đem vinh hiển và phú quí của các dân đến đó;
Điều này nói với chúng ta rằng qua quyền năng lạ lùng của Đức Chúa Trời, những người đã từng sống trong Nước Đấng Christ trong một ngàn năm bấy giờ đủ điều kiện để chuyển đến Nước Trời mới Đất mới, là Nước mà Thành thánh ở đó.
Câu 27: kẻ ô uế, người làm điều gớm ghiếc và nói dối không hề được vào thành; nhưng chỉ có những kẻ đã biên tên trong sách sự sống của Chiên Con.
Trong vòng Cơ-đốc-nhân cũng như ngoài Cơ-đốc-nhân cũng vậy, tất cả những người không biết lẽ thật của Phúc âm Nước và Thánh linh đều là những người ô uế, xấu xa và dối trá. Vì thế họ không thể vào trong Thành Thánh.
Ở đây, Lời của Đức Chúa Trời cho phép chúng ta chứng thực quyền phép của Phúc âm Nước và Thánh linh mà Chúa đã ban cho chúng ta trên đất này là to lớn như thế nào. Mặc dù Phúc âm Nước và Thánh linh đã được giảng dạy cho nhiều người trên đất này, thậm chí đã có lúc Phúc âm bị bác bỏ và miệt thị bởi những người gọi là Cơ-đốc-nhân. Nhưng chỉ đức tin nơi Phúc âm Nước và Thánh linh do Chúa ban cho mới là chìa khóa của Thiên đàng.
Nhiều người vẫn bác bỏ lẽ thật này, nhưng bạn phải biết rằng ai nhận biết và tin rằng với Phúc âm Nước và Thánh linh Chúa đã ban cho anh/chị ấy chìa khóa Thiên đàng và sự tha tội, thì anh/chị đó sẽ có tên trong Sách Sự Sống.
Nếu bạn tiếp nhận và tin nơi lẽ thật của Phúc âm Nước và Thánh linh, bạn sẽ được bao phủ trong ơn được vào Thành Thánh.