Search

Bài giảng

Chủ đề 2: Luật pháp

[2-1] Nếu Chúng Ta Tuân Thủ Luật Pháp, Liệu Có Thể Cứu Chúng Ta Không? (Lu-ca 10:25-30)

Nếu Chúng Ta Tuân Thủ Luật Pháp, Liệu Có Thể Cứu Chúng Ta Không?
(Lu-ca 10:25-30)
“Bấy giờ, một thầy dạy luật đứng dậy hỏi đặng thử Đức Chúa Jêsus rằng: Thưa thầy, tôi phải làm gì để được hưởng sự sống đời đời? Ngài phán rằng: Trong luật-pháp có chép điều gì? Ngươi đọc gì trong đó? Thưa rằng: Ngươi phải hết lòng, hết linh-hồn, hết sức, hết trí mà kính-mến Chúa là Đức Chúa Trời ngươi; và yêu người lân-cận như mình . Đức Chúa Jêsus phán rằng: Ngươi đáp phải lắm; hãy làm điều đó, thì được sống. Song thầy ấy muốn xưng mình là công-bình, nên thưa cùng Đức Chúa Jêsus rằng: Ai là người lân-cận tôi? Đức Chúa Jêsus lại cất tiếng phán rằng: Có một người từ thành Giê-ru-sa-lem xuống thành Giê-ri-cô, lâm vào tay kẻ cướp, nó giựt-lột hết, đánh cho mình-mẩy bị thương rồi đi, để người đó nửa sống nửa chết.”
 
 
Vấn đề lớn nhất của con người là gì?
Họ sống với nhiều ảo tưởng sai lầm.
 
Lu-ca 10:28, “Hãy làm điều đó, thì được sống.” 
Người ta sống với nhiều ảo tưởng sai lầm. Có vẻ như họ đặc biệt dễ bị tổn thương trong phương diện này. Có vẻ như họ dễ bị lừa và không nhận thức được mặt ác của mình. Chúng ta sinh ra không biết mình nhưng vẫn sống như thể mình biết. Bởi vì con người không biết chính mình nên Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng chúng ta là tội nhân. 
Mọi người nói về sự tồn tại của tội lỗi của chính họ. Và họ không có khả năng làm điều thiện, nhưng lại quá có xu hướng tự xác định mình là người tốt. Họ muốn khoe khoang những việc làm tốt của mình và khoe trương. Họ nói mình là tội nhân nhưng lại hành động như thể họ rất tốt. 
Họ biết rằng họ không có điều tốt trong mình và cũng không có khả năng làm điều tốt, nhưng họ vẫn cố gắng lừa dối người khác và đôi khi còn tự lừa dối chính mình. “Nào, chúng ta không thể hoàn toàn xấu xa được. Chắc hẳn phải có điều gì đó tốt đẹp bên trong chúng ta.”
Vì vậy, họ nhìn người khác và tự nhủ, “Ôi, tôi ước gì anh ấy đã không làm điều đó. Nếu anh ấy không làm vậy thì đã tốt hơn cho anh ấy. Anh ấy sẽ tốt hơn nhiều nếu anh ấy nói như thế này. Tôi nghĩ rằng việc rao giảng Tin lành theo cách này hay cách kia là tốt hơn. Anh ấy đã được chuộc lại trước tôi, vì vậy tôi nghĩ anh ấy nên cư xử giống như một người đã được chuộc lại. Tôi mới được chuộc lại gần đây, nhưng nếu tôi học hỏi thêm, tôi sẽ làm tốt hơn anh ấy nhiều.” 
Họ đang mài những con dao trong tim mình. “Cứ chờ đi Bạn sẽ thấy rằng tôi không giống bạ Vậy bạn nghĩ bạn đang dẫn trước tôi phải không? Cứ chờ đi Trong Kinh Thánh đã viết, những người đến sau sẽ là những người đến trước Tôi biết điều đó áp dụng cho tôi Hãy chờ, và tôi sẽ cho bạn thấy.” Mọi người tự lừa dối mình.
Mặc dù anh ấy sẽ làm những điều tương tự nếu anh ấy ở vị trí của người đó, anh ấy vẫn phán xét người đó. 
Khi được hỏi liệu con người có khả năng làm việc tốt không, hầu hết mọi người đều nói rằng họ không có. Nhưng họ lại có ảo tưởng rằng chính họ có khả năng đó. Vì vậy, họ cố gắng hết sức cho đến khi chết. 
Họ nghĩ rằng họ có ‘lòng tốt’ trong trái tim mình, rằng họ có khả năng làm điều tốt. Họ cũng nghĩ rằng chính họ đủ tốt. Bất kể họ đã được sanh lại từ bao lâu, ngay cả những người đã đạt được tiến bộ lớn hơn trong việc phục vụ Đức Chúa Trời cũng nghĩ rằng, ‘Tôi có thể làm điều này và điều kia cho Đức Chúa Trời.’ 
Nhưng nếu chúng ta loại bỏ Đức Chúa Trời ra khỏi cuộc sống của mình, liệu chúng ta có thể làm điều tốt được không? Liệu có điều tốt lành trong con người không? Liệu anh ấy có thể sống bằng cách làm những việc tốt không? Con người không có khả năng làm điều tốt. Bất cứ khi nào con người cố gắng tự mình làm điều gì đó, họ sẽ phạm tội. 
Một số người đẩy Chúa Giêsu sang một bên sau khi họ được cứu chuộc và cố gắng tự mình làm điều tốt. Không có gì ngoài cái ác trong tất cả chúng ta. Chúng ta chỉ có thể thực hành điều ác. Tự mình (Ngay cả những người đã được cứu chuộc), chúng ta chỉ có thể phạm tội. Đó là thực tế của xác thịt chúng ta.
 
Chúng ta luôn làm gì, thiện hay ác?
Ác
 
Trong sách ngợi khen của chúng tôi, ‘Ca ngợi Đức Chúa Trời’, có một bài hát như thế này, “♪Một cơ thể vô dụng mắc sai lầm khi không có Chúa Giêsu, không có bạn, tôi như một con tàu không có buồm đang đi trên biển♪.” Không có Chúa Giêsu, chúng ta chỉ có thể phạm tội. Chúng ta chỉ là người công chính vì chúng ta đã được sự cứu rỗi. Trên thực tế, chúng ta là những kẻ xấu xa. 
Sứ đồ Phao-lô đã nói, “Vì tôi không làm điều lành mình muốn, nhưng làm điều dữ mình không muốn” (Rô-ma 7:19). Nếu người ở với Chúa Giêsu thì điều đó không thành vấn đề. Nhưng khi không liên quan gì đến Ngài, người ấy cố gắng làm điều tốt trước mặt Đức Chúa Trời. Nhưng càng cố gắng, anh ta càng thấy mình đang thực hành điều ác. 
Ngay cả Vua Đa-vít cũng có cùng một bản chất như vậy. Khi đất nước thái bình và thịnh vượng, một buổi tối, ông lên mái nhà đi dạo. Anh ta nhìn thấy một bức tranh quyến rũ và rơi vào khoái cảm nhục dục. Ông ấy như thế nào khi ông ấy đã quên Đức Chúa Trời! Anh ta thực sự rất xấu xa. Ông đã giết U-ri và cướp vợ ông, nhưng Đa-vít không thể nhìn thấy sự tà ác trong chính mình. Anh ấy đã bào chữa cho hành động của mình. 
Rồi một ngày nọ, nhà tiên tri Na-than đến gặp ông và nói. “Đức Giê-hô-va sai Na-than đến cùng Đa-vít. Vậy, Na-than đến cùng người mà rằng: Trong một thành kia có hai người, người nầy giàu, còn người kia nghèo. Người giàu có chiên bò rất nhiều; nhưng người nghèo, nếu chẳng kể một con chiên cái nhỏ mà người đã mua, thì chẳng có gì hết. Người nuôi nó; nó cùng lớn lên với con-cái người tại nhà người, ăn đồ người ăn, uống đồ người uống, và ngủ trên lòng người; nó như một con gái của người vậy. Vả, có người khách đến người giàu; người giàu tiếc không muốn đụng đến chiên bò của mình đặng dọn một bữa ăn cho người khách đã đến, bèn bắt con chiên con của người nghèo và dọn cho kẻ khách đã đến thăm mình” (2 Sa-mu-ên 12:1-4). 
Đa-vít nói, “Kẻ nào làm điều đó chắc chắn phải chết!” Cơn giận của anh ta nổi lên rất nhiều, nên anh ta nói, “Anh ta đã có rất nhiều của cải riêng, anh ta hoàn toàn có thể lấy một con từ số đó. Nhưng anh ta lại lấy con cừu duy nhất của người nghèo để chuẩn bị thức ăn cho khách của mình. Anh ta phải chết!” Và Na-than nói với anh ta, “Chính anh là người đó!” Nếu chúng ta không theo Chúa Giêsu và không ở cùng Ngài, thậm chí những người đã tái sinh cũng có thể như vậy. 
Mọi người đều như vậy, kể cả những người trung thành. Chúng ta luôn vấp ngã, làm điều ác khi không có Chúa Giêsu. Vì vậy, hôm nay chúng ta lại biết ơn vì Chúa Giêsu đã sự cứu rỗi chúng ta bất chấp sự gian ác trong chúng ta. “♪Tôi muốn yên nghỉ dưới bóng Thập tự giá♪” Tâm hồn chúng ta yên nghỉ dưới bóng sự cứu chuộc của Đấng Christ. Nhưng nếu chúng ta rời khỏi bóng râm và nhìn lại chính mình, chúng ta không bao giờ có thể nghỉ ngơi được.
 
 

Chúa Trời Đã Ban cho Chúng Ta Sự Công Bình của Đức Tin Trước Luật Pháp

 
Đức tin hay Luật pháp cái nào đến trước?
Đức tin
 
Sứ đồ Phao-lô nói rằng Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta sự công chính của đức tin trước tiên. Sự công chính của đức tin đến trước. Ngài ban nó cho A-đam và Ê-va, cho A-bên, rồi cho Sết và Hê-nóc... cho đến Nô-ê..., rồi cho Áp-ra-ham, rồi cho Y-sác, cho Gia-cốp và mười hai con trai của ông. Mặc dù không có Luật pháp, họ đã trở nên công chính trước mặt Đức Chúa Trời qua đức tin của họ vào lời Ngài. Họ được ban phước và được yên nghỉ nhờ đức tin nơi Lời Ngài. 
Và thời gian trôi qua, con cháu của Gia-cốp phải sống làm nô lệ ở Ai Cập suốt 400 năm vì Giô-sép. Sau đó, Đức Chúa Trời dẫn họ qua Môi-se vào xứ Ca-na-an. Tuy nhiên, trong suốt 400 năm nô lệ, họ đã quên đi sự công chính của đức tin.
Vì thế Đức Chúa Trời để họ vượt qua Biển-Đỏ nhờ phép lạ của Ngài và dẫn họ vào đồng vắng. Khi họ đến đồng vắng Sin, Ngài ban Luật pháp cho họ trên Núi Si-nai. Ngài ban cho họ Mười Điều Luật, trong đó có 613 điều luật chi tiết. “Ta là Đức Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời của Y-sác, Đức Chúa Trời của Gia-cốp. Hãy để Môi-se lên núi Si-nai, ta sẽ ban luật pháp cho các ngươi.” Đức Chúa Trời đã ban cho Y-sơ-ra-ên Luật pháp.
Ngài ban cho họ Luật pháp để họ có thể ‘sự hiểu biết về tội lỗi’ (Rô-ma 3:20). Đó là để cho họ biết điều gì Ngài thích và điều gì Ngài không thích cũng như bày tỏ sự công chính và thánh khiết của Ngài. 
Tất cả người dân Y-sơ-ra-ên từng bị bắt làm nô lệ ở Ai Cập trong 400 năm đã vượt qua Biển-Đỏ. Họ chưa bao giờ gặp Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời của Y-sác, Đức Chúa Trời của Gia-cốp. Họ không biết Ngài. 
Và trong khi sống như nô lệ suốt 400 năm đó, họ đã quên đi sự công bình của Đức Chúa Trời. Vào thời điểm đó, họ không có người lãnh đạo. Gia-cốp và Giô-sép là những người lãnh đạo của họ, nhưng họ đã chết. Có vẻ như Giô-sép đã không truyền lại được đức tin cho các con trai mình là Ma-na-se và Ép-ra-im.
Vì vậy, họ cần tìm lại Đức Chúa Trời của mình và gặp Ngài vì họ đã quên mất sự công chính của Đức Chúa Trời. Vì thế Đức Chúa Trời ban cho họ sự công chính của đức tin trước, rồi ban cho họ Luật pháp sau khi họ đã quên đức tin. Ngài ban cho họ Luật pháp để đưa họ trở lại với Ngài. 
Để cứu Y-sơ-ra-ên và biến họ thành dân của Ngài, dân của Áp-ra-ham, Ngài đã bảo họ phải làm phép cắt bao quy đầu. 
Mục đích của Ngài khi kêu gọi họ trước hết là để cho họ biết rằng có Đức Chúa Trời bằng cách thiết lập Luật pháp và thứ hai là để cho họ biết rằng họ là những tội nhân trước mặt Ngài. Đức Chúa Trời mong muốn họ đến trước mặt Ngài và trở thành dân của Ngài thông qua sự cứu chuộc bằng của lễ cứu chuộc mà Đức Chúa Trời đã ban cho họ. Và Ngài đã biến họ thành dân của Ngài. 
Dân Y-sơ-ra-ên đã được cứu chuộc qua Luật pháp (hệ thống hiến tế) bằng cách tin vào Đấng Mê-si-a sẽ đến. Nhưng hệ thống hiến tế cũng đã phai nhạt theo thời gian. Hãy xem đó là khi nào. 
Trong Lu-ca 10:25, “Bấy giờ, một thầy dạy luật đứng dậy hỏi đặng thử Đức Chúa Jêsus.” Thầy dạy luật là một người Pha-ri-si. Người Pha-ri-si là những người bảo thủ cố gắng sống theo Lời Ngài. Họ là những người đã cố gắng bảo vệ đất nước trước rồi mới sống theo Luật pháp của Ngài. Và sau đó có những người Nhiệt tâm, những người rất bốc đồng và có xu hướng dựa vào biểu tình để đạt được tầm nhìn của họ.
 
Chúa Giêsu muốn gặp ai?
Tội nhân không có người chăn
 
Ngày nay cũng có những người như họ. Họ lãnh đạo các phong trào xã hội với những khẩu hiệu như ‘Hãy cứu những người dân bị áp bức của đất nước.’ Họ tin rằng Chúa Giêsu đến để cứu người nghèo và người bị áp bức. Vì vậy, họ học thần học trong các chủng viện thần học, tham gia chính trị và cố gắng ‘cung cấp cho người bị tước đoạt’ trong mọi lĩnh vực của xã hội. 
Họ là những người khẳng định, “Hãy sống theo Luật pháp thiêng liêng và từ bi của Đức Chúa Trời. Sống theo Luật pháp, theo Lời của Ngài.” Nhưng họ không nhận ra ý nghĩa thực sự của Luật pháp. Họ cố gắng sống theo lời của Luật pháp nhưng họ không nhận ra sự mặc khải thiêng liêng của Luật pháp.
Vì vậy, chúng ta có thể nói rằng không có nhà tiên tri, tôi tớ của Đức Chúa Trời, trong khoảng 400 năm trước Đấng Christ. Bằng cách này, họ đã trở thành một đàn chiên không có người chăn. 
Họ không có Luật pháp cũng không có người lãnh đạo. Đức Chúa Trời đã không bày tỏ chính Ngài qua những nhà lãnh đạo tôn giáo đạo đức giả vào thời đó. Đất nước này đã trở thành thuộc địa của Đế chế La Mã. Vì thế Chúa Giêsu đã nói với Y-sơ-ra-ên đi theo Người vào đồng vắng rằng Người sẽ không để họ đói mà đi. Ngài thương xót đàn chiên không có người chăn. Lúc đó có rất nhiều người đau khổ. 
Cơ bản, những người có quyền lợi đã được bảo đảm là các luật sư và những người khác trong các vị trí tương tự; Người Pha-ri-si là những người của dòng dõi I-sơ-ra-ên và Do Thái giáo. Họ rất tự hào.
Và thầy dạy luật này đã hỏi Chúa Giêsu trong Lu-ca 10:25, “Tôi phải làm gì để được hưởng sự sống đời đời?” thầy dạy luật cảm thấy dường như không có ai tốt hơn anh ta trong số những người Y-sơ-ra-ên. Vì vậy, người thầy dạy luật này (người chưa được chuộc) đã thách thức Ngài rằng “Tôi phải làm gì để được hưởng sự sống đời đời?”
Thầy dạy luật này chỉ là sự phản ánh của chính chúng ta. Ông hỏi Chúa Giêsu, “Tôi phải làm gì để được hưởng sự sống đời đời?” Chúa Giêsu đã nói với ông rằng, “Trong luật-pháp có chép điều gì? Ngươi đọc gì trong đó?” 
Vì vậy, anh ấy đã trả lời và nói, (Thưa rằng) “Ngươi phải hết lòng, hết linh-hồn, hết sức, hết trí mà kính-mến Chúa là Đức Chúa Trời ngươi; và yêu người lân-cận như mình.” 
Chúa Giêsu phán rằng, “Ngươi đáp phải lắm; hãy làm điều đó, thì được sống.” 
Ông thách thức Chúa Giêsu không biết mình là xấu xa, một khối tội lỗi không bao giờ có thể làm điều lành. Vì thế Chúa Giêsu hỏi ông, “Trong luật-pháp có chép điều gì? Ngươi đọc gì trong đó?”
 
Bạn đọc Luật pháp như thế nào
Chúng ta là những tội nhân không bao giờ có thể tuân giữ Luật pháp.
 
“Ngài phán rằng: Trong luật-pháp có chép điều gì? Ngươi đọc gì trong đó? Thưa rằng: Ngươi phải hết lòng, hết linh-hồn, hết sức, hết trí mà kính-mến Chúa là Đức Chúa Trời ngươi; và yêu người lân-cận như mình. Đức Chúa Jêsus phán rằng: Ngươi đáp phải lắm; hãy làm điều đó, thì được sống” (Lu-ca 10:26-28).
“Ngươi đọc gì trong đó?” Điều này có nghĩa là bạn biết và hiểu Luật pháp như thế nào.
Giống như nhiều người thời nay, thầy dạy luật này cũng nghĩ rằng Đức Chúa Trời đã ban cho ông Luật pháp để ông tuân giữ. Vì vậy, ông trả lời, “Ngươi phải hết lòng, hết linh-hồn, hết sức, hết trí mà kính-mến Chúa là Đức Chúa Trời ngươi; và yêu người lân-cận như mình.” 
Luật pháp không có khuyết điểm. Ngài đã ban cho chúng ta một Luật pháp hoàn hảo. Ngài dạy chúng ta phải yêu mến Đức Chúa Trời hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực và trí óc và yêu người lân cận như chính mình. Chúng ta yêu mến Đức Chúa Trời bằng cả tấm lòng và sức lực của mình là điều đúng đắn, nhưng đó là lời thánh không bao giờ có thể giữ được.
“Ngươi đọc gì trong đó?” Nó có nghĩa là Luật pháp là đúng và chính xác, nhưng bạn hiểu nó như thế nào? thầy dạy luật nghĩ rằng Đức Chúa Trờ đã ban cho ông ấy điều đó để ông ấy tuân theo. Nhưng Luật pháp của Đức Chúa Trời được ban cho để chúng ta biết những khuyết điểm của mình và vạch trần tội ác của mình một cách trọn vẹn. Nó vạch trần tội lỗi của chúng ta, “Bạn đã phạm tội. Bạn đã giết khi tôi bảo bạn đừng giết. Tại sao ngươi không vâng lời Ta?” 
Luật pháp phơi bày tội lỗi trong trái tim của con người. Giả sử trên đường đến đây, tôi nhìn thấy những quả dưa hấu chín trên cánh đồng. Đức Chúa Trời đã cảnh cáo tôi qua Luật pháp, “Đừng hái quả dưa hấu đó để ăn. Nếu bạn làm vậy, nó sẽ làm tôi cảm thấy xấu hổ.” “Vâng thưa cha.” “Cánh đồng thuộc về ông này ông nọ, vì vậy bạn không bao giờ nên hái chúng.” “Vâng thưa cha.” 
Khi chúng ta nghe Luật pháp nói rằng chúng ta không bao giờ nên hái chúng, chúng ta cảm thấy thôi thúc mạnh mẽ phải chọn chúng. Nếu chúng ta đẩy lò xo xuống, nó sẽ có xu hướng đẩy lên chúng ta như một phản ứng. Tội lỗi của con người cũng vậy thôi. 
Đức Chúa Trời bảo chúng ta đừng bao giờ làm điều ác. Đức Chúa Trời có thể nói như vậy vì Ngài là thánh, vì Ngài trọn vẹn, vì Ngài có khả năng làm như vậy. Mặt khác, chúng ta ‘không bao giờ’ có thể không phạm tội và ‘không bao giờ’ làm điều tốt. Chúng ta ‘không bao giờ’ có điều tốt trong lòng. Luật pháp nói không bao giờ làm (nó được quy định bằng từ ‘không bao giờ’). Tại sao? Bởi vì mọi người có dục vọng trong trái tim của họ. Chúng ta hành động theo dục vọng của mình. Chúng ta phạm tội ngoại tình bởi vì chúng ta có tội ngoại tình trong trái tim mình.
Chúng ta nên đọc Kinh Thánh một cách cẩn thận. Khi tôi mới tin vào Chúa Giêsu, tôi đã tin theo Lời. Tôi đọc được rằng Chúa Giêsu đã chết trên Thập tự giá vì tôi và tôi không thể ngăn được nước mắt tuôn rơi. Tôi thật là một kẻ ác và Ngài đã chết trên Thập Tự Giá vì tôi. Lòng tôi đau đớn vô cùng đến nỗi tôi tin vào Ngài. Sau đó, tôi đã nghĩ, ‘Nếu tôi sẽ tin, tôi sẽ tin theo Lời.’ 
Khi tôi đọc Xuất Ê-díp-tô Ký 20, nó nói, “Trước mặt ta, ngươi chớ có các thần khác.” Tôi đã cầu nguyện ăn năn theo lời này. Tôi lục lại trí nhớ của mình để xem liệu tôi đã từng có các vị thần khác trước Ngài chưa, đã từng gọi tên Ngài một cách vô ích, hay tôi đã từng cúi lạy trước các vị thần khác chưa. Tôi nhận ra rằng mình đã lạy các vị thần khác nhiều lần trong các nghi lễ tôn vinh tổ tiên. Tôi đã phạm tội lỗi thờ các thần khác. 
Vì thế tôi đã cầu nguyện sám hối, “Lạy Đức Chúa Trời, con đã thờ thần tượng. Tôi phải bị phán xét vì điều đó. Xin hãy tha thứ cho tội lỗi của tôi. Tôi sẽ không bao giờ làm điều đó nữa.” Vì vậy, một tội lỗi đã được giải quyết. 
Sau đó tôi cố nghĩ xem có bao giờ tôi gọi tên Ngài một cách vô ích không. Sau đó tôi nhớ lại rằng khi mới bắt đầu tin vào Đức Chúa Trời, tôi đã hút thuốc. Bạn bè tôi nói với tôi, “Bạn không phải đang làm xấu hổ Đức Chúa Trời khi hút thuốc sao? Làm sao một người Cơ đốc nhân có thể hút thuốc?” 
Đó là việc gọi tên Ngài một cách vô ích, phải không? Vì thế tôi lại cầu nguyện: “Lạy Đức Chúa Trời, con kêu cầu danh Ngài một cách vô ích. Xin hãy tha thứ cho tôi. Tôi sẽ bỏ thuốc lá.” Vì vậy, tôi đã cố gắng bỏ thuốc lá nhưng vẫn tiếp tục hút thuốc trong một năm. Việc đó thực sự khó khăn, gần như không thể bỏ được thuốc lá. Nhưng cuối cùng tôi đã bỏ được thuốc lá hoàn toàn. Tôi cảm thấy một tội lỗi khác đã được giải quyết.
Cái tiếp theo là “Hãy nhớ ngày nghỉ đặng làm nên ngày thánh.” Nó có nghĩa là không làm những việc khác vào Chủ nhật; không được kinh doanh, kiếm tiền. Thế là tôi cũng dừng việc đó lại. 
Sau đó là câu “Hãy hiếu-kính cha mẹ ngươi,” Tôi tôn trọng họ khi tôi đi vắng, nhưng họ lại là nguồn gốc của nỗi đau khi tôi ở gần. “Ôi Đức Chúa Trời ơi, tôi đã phạm tội trước mặt Đức Chúa Trời. Xin hãy tha thứ cho con, Đức Chúa Trời.” Tôi cầu nguyện ăn năn. 
Nhưng tôi không thể hiếu kính cha mẹ mình nữa vì lúc đó họ đều đã qua đời. Tôi có thể làm gì? “Đức Chúa Trời, xin hãy tha thứ cho kẻ tội lỗi vô dụng này. Ngài đã chết trên Thập tự giá vì tôi.” Tôi đã biết ơn biết bao!
Bằng cách này, tôi nghĩ rằng mình đã giải quyết được từng tội lỗi của mình. Có những Luật pháp khác, Ngươi chớ giết người, Ngươi chớ phạm tội tà-dâm, Ngươi chớ trộm-cướp... Tôi nhận ra rằng tôi chưa từng giữ được một điều nào. Tôi đã cầu nguyện suốt đêm. Nhưng bạn biết đấy, Cầu nguyện ăn năn không vui. Hãy cùng bàn về chuyện này.
Khi nghĩ đến việc Chúa Giêsu bị đóng đinh, tôi có thể thông cảm được nỗi đau đớn đó như thế nào. Và Ngài đã chết cho chúng ta là những người không thể sống theo lời Ngài. Tôi đã khóc suốt đêm khi nghĩ rằng Đức Chúa Trời yêu tôi biết bao và cảm ơn Ngài đã ban cho tôi niềm vui thực sự. 
Năm đầu tiên tôi tham dự nhà thờ thì khá là dễ dàng, nhưng vài năm tiếp theo thì trở nên rất khó khăn, Vì tôi đã khóc quá thường xuyên, nên tôi phải cố gắng suy nghĩ nhiều hơn để có thể khóc. 
Khi nước mắt vẫn không rơi, tôi thường đi lên núi cầu nguyện và ăn chay trong 3 ngày. Sau đó, nước mắt đã trở lại. Tôi ướt đẫm trong nước mắt của mình, trở lại với xã hội và đã khóc trong nhà thờ.
Mọi người xung quanh tôi nói, “Bạn đã trở nên thánh thiện hơn rất nhiều với những lời cầu nguyện của bạn trên núi.” Nhưng nước mắt lại không thể tránh khỏi đã khô. Năm thứ ba thì trở nên rất khó khăn. Tôi sẽ nghĩ về những điều sai trái mà tôi đã gây ra cho bạn bè và đồng bào Cơ Đốc giáo của mình và lại khóc. Sau 4 năm, nước mắt lại cạn. Trong mắt tôi có tuyến lệ, nhưng chúng không còn hoạt động nữa. 
Sau 5 năm, dù có cố gắng thế nào tôi cũng không thể khóc. Sau vài năm như vậy, tôi trở nên chán ghét chính mình và lại tìm đến Kinh Thánh.
 
 

Luật pháp Là để Nhận Biết Tội Lỗi

 
Chúng ta phải nhận ra điều gì về Luật pháp?
Chúng ta không bao giờ có thể giữ được Luật pháp.
 
Trong Rô-ma 3:20, chúng ta đọc, “Vì luật-pháp cho người ta biết tội-lỗi.” Tôi coi đây là thông điệp cá nhân gửi đến Sứ đồ Phao-lô và chỉ tin vào những lời mà tôi đã chọn. Nhưng sau khi nước mắt đã cạn, tôi không thể tiếp tục cuộc sống đức tin của mình nữa. 
Vì vậy, tôi đã phạm tội liên tục và nhận ra rằng trong lòng mình có tội và không thể sống theo Luật pháp. Tôi không thể chịu đựng được. Nhưng tôi không thể từ bỏ Luật pháp vì tôi tin rằng nó được ban cho để phải tuân theo. Cuối cùng, tôi đã trở thành một thầy dạy luật giống như những gì được thấy trong Kinh thánh. Việc tiếp tục một cuộc sống đức tin trở nên quá khó khăn. 
Vì vậy, để thoát khỏi những khó khăn, tôi đã cầu nguyện và tìm kiếm Đức Chúa Trời một cách tha thiết. Sau đó, tôi đã tiếp cận Tin lành về nước và Thánh Linh qua Lời, tôi biết và tin rằng mọi tội lỗi của tôi đã được sự cứu rỗi.
Mỗi khi tôi đọc lời nói rằng tôi không có tội, nó giống như một làn gió mát thổi qua trái tim tôi. Tôi có quá nhiều tội lỗi đến nỗi khi đọc Luật pháp, tôi đã bắt đầu nhận ra những tội lỗi đó. Tôi đã vi phạm tất cả Mười Điều Luật trong lòng mình. Phạm tội trong lòng cũng là một tội, và mà không hay biết, tôi đã trở thành người tin vào Luật pháp. 
Khi tôi giữ luật pháp, tôi đã hạnh phúc. Nhưng khi tôi không thể giữ được Luật pháp, tôi đã cảm thấy khổ sở, cáu giận và buồn bã. Cuối cùng, tôi đã trở nên tiều tụy vì tất cả những điều đó. Giá như tôi được dạy ngay từ đầu, “Không, không. Luật pháp có một ý nghĩa khác. Nó cho bạn thấy rằng bạn là một khối tội lỗi; bạn yêu tiền bạc, yêu người khác giới và yêu những thứ đẹp đẽ để nhìn. Bạn có những điều mà bạn yêu quý hơn cả Đức Chúa Trời. Bạn muốn làm theo những điều của thế giới. Luật pháp đã được ban cho bạn, không phải để tuân giữ, nhưng để nhận ra mình là một tội nhân có ác tâm trong lòng.” 
Giá như hồi đó có người dạy tôi thì tôi đã không phải khổ 10 năm. Như vậy, tôi đã sống dưới Luật pháp được 10 năm cho đến khi tôi nhận ra điều này. 
Điều răn thứ tư là “Hãy nhớ ngày nghỉ đặng làm nên ngày thánh.” Điều đó có nghĩa là chúng ta không nên làm việc vào ngày nghỉ. Nó có nghĩa là chúng ta nên đi bộ chứ không nên đi xe nếu chúng ta đang đi một quãng đường xa. Và tôi nghĩ rằng tôi sẽ có được danh dự nếu đi bộ đến nơi tôi sẽ giảng đạo. Sau cùng, tôi đã sắp thuyết giảng về Luật pháp. Vì vậy, tôi nghĩ rằng mình phải thực hành những gì mình đã giảng. Tôi đã suýt bỏ cuộc vì quá khó khăn. 
Như đã được ghi lại ở đây, “Ngươi đọc gì trong đó?” Tôi đã không hiểu câu hỏi này và đã phải chịu đựng suốt 10 năm. Thầy dạy luật cũng đã hiểu lầm điều đó. Anh ấy nghĩ rằng nếu tuân theo Luật pháp và sống cẩn thận, anh ấy sẽ được Đức Chúa Trời ban phước. 
Nhưng Chúa Giêsu đã nói với ông rằng, “Ngươi đọc gì trong đó?” Vâng, bạn đã trả lời đúng; bạn đang dùng nó như nó được viết. Hãy thử và giữ nó. Bạn sẽ sống nếu bạn làm vậy, nhưng sẽ chết nếu không. Tiền công của tội lỗi là cái chết. “Bạn sẽ chết nếu không làm vậy.” (Đối nghịch với sự sống là cái chết, phải không?)
Nhưng Thầy dạy luật vẫn không hiểu. Thầy dạy luật này là chúng tôi, bạn và tôi. Tôi đã học thần học trong 10 năm. Tôi đã thử mọi thứ, đọc mọi thứ và làm mọi thứ: nhịn ăn, ảo tưởng, nói các thứ tiếng khác... Tôi đã đọc Kinh Thánh trong 10 năm và mong đợi sẽ đạt được điều gì đó. Nhưng về mặt tâm linh, tôi đã là một người mù. 
Đó là lý do tại sao một tội nhân phải gặp một người có thể làm cho người ấy thấy rằng Đấng Cứu Rỗi là Chúa Giêsu, Chúa chúng ta. Sau đó, anh ấy nhận ra rằng “Aha! Chúng ta không bao giờ có thể giữ Luật pháp. Dù chúng ta cố gắng thế nào đi nữa, chúng ta chỉ đi đến địa ngục mà thôi. Nhưng Chúa Giêsu đã đến để cứu chuộc chúng ta bằng nước và Thánh Linh! Ha-lê-lu-gia!” Chúng ta có thể được sự cứu rỗi chuộc bởi nước và Thánh Linh. Đó là ân sủng, món quà của Đức Chúa Trời. Vì thế chúng ta ca ngợi Đức Chúa Trời. 
Tôi may mắn tốt nghiệp trong hoàn cảnh tuyệt vọng, nhưng một số người lại dành cả đời mình để học thần học một cách vô ích và không bao giờ nhận ra sự thật cho đến ngày họ qua đời. Một số người tin suốt nhiều thập kỷ hoặc từ thế hệ này sang thế hệ khác nhưng không bao giờ được sanh lại. 
Chúng ta thoát khỏi tội nhân khi nhận ra rằng chúng ta không bao giờ có thể tuân thủ Luật pháp, sau đó đứng trước Chúa Giêsu và lắng nghe Tin lành về nước và Thánh Linh. Khi chúng ta gặp Chúa Giêsu, chúng ta được giải thoát khỏi mọi sự phán xét và mọi sự đày đọa. Chúng ta là những tội nhân tồi tệ nhất, nhưng chúng ta trở nên công chính vì Ngài đã cứu chúng ta bằng nước và huyết. 
Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng chúng ta không bao giờ có thể sống theo ý muốn của Ngài. Anh ta đã nói điều này với thầy dạy luật nhưng anh ta không hiểu. Vì thế Chúa Giêsu kể cho ông nghe một câu chuyện để giúp ông hiểu.
 
Điều gì khiến con người sa ngã trong cuộc sống đức tin?
Tội lỗi
 
“Có một người từ thành Giê-ru-sa-lem xuống thành Giê-ri-cô, lâm vào tay kẻ cướp, nó giựt-lột hết, đánh cho mình-mẩy bị thương rồi đi, để người đó nửa sống nửa chết” (Lu-ca 10:30). Chúa Giêsu đã nói với ông ấy rằng mọi người đã chịu khổ cả đời, giống như người đàn ông này bị bọn cướp đánh và suýt chết. 
Có một người đi từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-cô. Giê-ri-cô là thế giới thế tục, và Giê-ru-sa-lem tượng trưng cho thành phố của tôn giáo, thành phố của đức tin, thành phố của những người khoe khoang về Luật pháp. Nó nói với chúng ta rằng, nếu chúng ta tin Đấng Christ là tôn giáo của mình, chúng ta không thể không bị hủy hoại. 
“Có một người từ thành Giê-ru-sa-lem xuống thành Giê-ri-cô, lâm vào tay kẻ cướp, nó giựt-lột hết, đánh cho mình-mẩy bị thương rồi đi, để người đó nửa sống nửa chết.” Giê-ru-sa-lem là một thành phố lớn với dân số đông. Có một thầy tế lễ thượng phẩm, một nhóm thầy tế lễ, những người Lê-vi và nhiều người tôn giáo xuất sắc ở đó. Có nhiều người biết rõ Luật pháp. Ở đó, họ cố gắng sống theo Luật pháp, nhưng cuối cùng thất bại và hướng đến Giê-ri-cô. Họ cứ tiếp tục rơi vào thế giới (Giê-ri-cô) và gặp những tên trộm. 
Người đàn ông gặp kẻ trộm trên đường từ Giê-ru-sa-lem đến Giê-ri-cô và bị lột quần áo. ‘Bị lột bỏ quần áo của mình’ có nghĩa là anh ta đã mất sự công chính của mình. Chúng ta không thể sống theo Luật pháp được. Sứ đồ Phao-lô đã nói trong Rô-ma 7:19-20, “Vì tôi không làm điều lành mình muốn, nhưng làm điều dữ mình không muốn. Ví bằng tôi làm điều mình không muốn, ấy chẳng phải là tôi làm điều đó nữa, nhưng là tội-lỗi ở trong tôi vậy.” 
Tôi ước gì tôi có thể làm điều tốt và sống trong lời Ngài. Nhưng “vì thật là tự trong, tự lòng người mà ra những ác-tưởng, sự dâm-dục, trộm-cướp, giết người, tà-dâm, tham-lam, hung-ác, gian-dối, hoang-đàng, con mắt ganh-đố, lộng-ngôn, kiêu-ngạo, điên-cuồng” (Mác 7:21-22). 
Vì chúng ở trong lòng chúng ta và liên tục xuất hiện, chúng ta làm điều mà chúng ta không nên làm và không làm điều chúng ta muốn làm. Chúng ta cứ lặp đi lặp lại những điều ác đó trong lòng. Những gì ma quỷ phải làm là chỉ cho chúng ta một sự thúc đẩy nhỏ để phạm tội.
 
 
Tội Lỗi trong Lòng Toàn Nhân Loại
 
Chúng ta có thể sống theo Luật pháp không?
Không.
 
Người ta nói trong Mác 7, “Chẳng sự gì từ ngoài người vào trong có thể làm dơ-dáy người được; nhưng sự gì từ trong người ra, đó là sự làm dơ-dáy người.”
Chúa Giêsu đang nói với chúng ta rằng trong lòng người có những ý nghĩ xấu xa, sự ngoại tình, sự gian dâm, sự giết người, sự trộm cắp, sự tham lam, sự ác độc, sự lừa dối, sự dâm ô, mắt ác, sự báng bổ, sự kiêu ngạo, và sự ngu ngốc. Tất cả chúng ta đều có tội giết người trong lòng. 
Không có ai không giết người. Các bà mẹ la hét con cái của mình, “Không. Đừng làm vậy. Mẹ đã nói con không được làm vậy, đồ chết tiệt. Mẹ đã nói đừng làm vậy.” Và sau đó, “Con lại đây. Mẹ đã nói và nói con không được làm vậy. Mẹ sẽ giết con vì chuyện đó.” Đó là tội giết người. Bạn có thể giết con cái của mình bằng những lời nói thiếu suy nghĩ. 
Nhưng nếu chúng ta trút hết giận dữ lên chúng, trẻ em sẽ chết. Chúng ta sẽ giết họ trước mặt Đức Chúa Trời. Đôi khi chúng ta tự làm mình sợ hãi. “Ôi chúa ơi! Tại sao tôi lại làm điều đó?” Chúng ta nhìn vào những vết bầm tím sau khi đánh con và nghĩ rằng mình chắc hẳn đã điên rồ khi làm điều đó, Chúng ta hành động như vậy bởi vì chúng ta có tội giết người trong lòng. 
Vì thế ‘Ví bằng tôi làm điều mình không muốn’ có nghĩa là chúng ta làm điều ác bởi vì chúng ta xấu xa. Và thật dễ dàng cho Sa-tan cám dỗ chúng ta vào tội lỗi.
Giả sử một người chưa được cứu chuộc ngồi trong một túp lều suốt 10 năm, đối diện với bức tường và thiền định như Đại sư Sung-chol, một nhà sư vĩ đại của Hàn Quốc. Khi anh ấy ngồi với mặt hướng vào tường thì không sao, nhưng ai đó phải mang thức ăn đến và dọn dẹp chất thải(phân). 
Vậy thì anh ta phải tiếp xúc với ai đó. Sẽ không có vấn đề gì nếu đó là một người đàn ông, nhưng hãy giả sử đó là một người phụ nữ xinh đẹp. Nếu anh ta tình cờ nhìn thấy cô ấy, tất cả thời gian ngồi của anh ta sẽ trở nên vô ích. Người ấy nghĩ: “Ta không nên phạm tội tà dâm; Tôi có nó trong lòng, nhưng tôi phải rũ bỏ nó. Tôi phải lắc nó. Không! Ra khỏi tâm tri tôi!” 
Nhưng quyết tâm của anh tan biến ngay khi anh nhìn thấy cô. Sau khi người phụ nữ rời đi, anh nhìn vào trái tim mình. 10 năm làm việc chăm chỉ, tất cả đều vô ích. 
Việc Sa-tan lấy đi sự công chính của một người thật đơn giản. Tất cả những gì Sa-tan phải làm là thúc đẩy họ một chút. Khi một người đấu tranh mà không được cứu chuộc, họ tiếp tục rơi vào tội lỗi. Người đó trung thành dâng phần mười vào mỗi Chúa Nhật, ăn chay 40 ngày, 100 ngày cầu nguyện lúc bình minh... nhưng Sa-tan cám dỗ họ bằng những điều tốt đẹp trong cuộc sống. 
“Tôi muốn giao cho bạn một vị trí quan trọng trong công ty, nhưng bạn là người theo đạo Đức Chúa Trời và bạn không thể làm việc vào Chủ nhật phải không? Đó là một vị trí tuyệt vời. Có lẽ bạn có thể làm việc 3 ngày chủ nhật và chỉ đi nhà thờ mỗi tháng một lần. Khi đó bạn sẽ được hưởng uy tín cao như vậy và có một khoản tiền lương lớn. Như thế nào về nó?” Với điều này, có lẽ 100 trên 100 người sẽ bị mua chuộc. 
Nếu điều này không hiệu quả thì có những người có điểm yếu đối với phụ nữ. Nếu Sa-tan đặt một người phụ nữ trước mặt anh ta, anh ta sẽ yêu và quên Đức Chúa Trời ngay lập tức. Đó là cách sự công chính của con người bị tước bỏ.
Nếu chúng ta cố gắng sống theo Lề Luật pháp, cuối cùng tất cả những gì chúng ta có chỉ là những vết thương của tội lỗi, đau khổ và nghèo khó; chúng ta mất đi mọi sự công bình. “Có một người từ thành Giê-ru-sa-lem xuống thành Giê-ri-cô, lâm vào tay kẻ cướp, nó giựt-lột hết, đánh cho mình-mẩy bị thương rồi đi, để người đó nửa sống nửa chết.”
Điều này có nghĩa là dù chúng ta cố gắng ở lại Giê-ru-sa-lem bằng cách sống theo ý muốn của Đức Chúa Trời thánh khiết, nhưng chúng ta sẽ vấp ngã hết lần này đến lần khác vì sự yếu đuối của chính mình và chúng ta sẽ bị hủy hoại. 
Và sau đó chúng ta sẽ cầu nguyện ăn năn trước mặt Đức Chúa Trời. “Lạy Đức Chúa Trời, con đã phạm tội. Xin hãy tha thứ cho tôi; Tôi sẽ không bao giờ làm điều đó một lần nữa. Tôi hứa với bạn rằng đây thực sự sẽ là lần cuối cùng. Tôi cầu xin và cầu xin bạn hãy tha thứ cho tôi chỉ một lần này thôi.” 
Nhưng nó không bao giờ kéo dài. Con người không thể sống trong thế giới này mà không phạm tội. Họ có thể tránh được vài lần, nhưng sẽ không thể nào không phạm tội lại. Vì vậy, lại phạm tội. “Đức Chúa Trời ơi, xin hãy tha thứ cho con.” Nếu điều này tiếp tục, họ sẽ rời xa nhà thờ (tôn giáo). Họ rời xa Chúa Trời vì tội lỗi của họ và họ sẽ kết thúc trong địa ngục. 
Đi đến Giê-ri-cô có nghĩa là rơi vào thế giới thế tục, gần gũi với thế giới và xa rời Giê-ru-sa-lem. Ban đầu, Giê-ru-sa-lem vẫn gần hơn. Nhưng khi chu kỳ phạm tội và ăn năn được lặp lại, chúng ta thấy mình đứng trên đường phố Giê-ri-cô, rơi sâu vào thế giới.
 
Ai có thể được sự cứu rỗi?
Những người từ bỏ cố gắng của riêng mình
 
Người đàn ông đã gặp ai trên đường đến Giê-ri-cô? Anh đã gặp những tên trộm. Người không sống theo Luật pháp thậm chí còn trở thành một con chó hèn mọn. Anh ta uống rượu và ngủ ở bất cứ đâu, đi tiểu ở bất cứ đâu. Con chó này thức dậy vào ngày hôm sau và lại uống rượu. Con chó hèn mọn sẽ ăn cứt của chính nó. Đó là lý do tại sao anh ấy là một con chó. Anh ấy biết rằng mình không nên uống rượu. Anh ta ăn năn vào sáng hôm sau nhưng lại uống rượu. 
Nó giống như người đàn ông đã gặp kẻ cướp trên đường đến Giê-ri-cô. Anh ta bị bỏ lại phía sau, bị thương và gần như chết. Trong lòng anh ta chỉ có tội lỗi. Đây là bản chất của con người.
Người ta tin Chúa Giêsu và sống theo Luật pháp ở Giê-ru-sa-lem nhưng bị bỏ lại phía sau chỉ có tội lỗi trong lòng. Tất cả những gì họ có thể chứng tỏ đời sống tôn giáo của mình là những vết thương do tội lỗi gây ra. Những người có tội trong lòng sẽ bị ném vào địa ngục. Họ biết điều đó nhưng không biết phải làm gì. Bạn và tôi cũng đã từng đến đó phải không? Đúng. Tất cả chúng tôi đều giống nhau. 
Thầy dạy luật hiểu lầm Luật pháp của Đức Chúa Trời sẽ đấu tranh cả đời nhưng cuối cùng sẽ bị thương và kết thúc trong địa ngục. Anh ta chính là chúng ta, bạn và tôi. 
Chỉ có Chúa Giêsu mới có thể cứu chúng ta. Có rất nhiều người thông minh xung quanh chúng ta và họ luôn khoe khoang những gì họ biết. Tất cả họ đều giả vờ sống theo Luật pháp Đức Chúa Trời. Họ không thể thành thật với chính mình. Họ không thể nói thẳng điều gì là đúng hay sai, nhưng luôn chú trọng đến việc chải chuốt vẻ ngoài của mình để trông có vẻ trung thành. 
Trong số họ có những kẻ tội lỗi trên đường đến Giê-ri-cô, những người bị đánh đập bởi bọn cướp và những người đã chết. Chúng ta phải biết mình yếu đuối như thế nào trước mặt Đức Chúa Trời. 
Chúng ta nên thừa nhận trước mặt Ngài, “Lạy Đức Chúa Trời, con sẽ xuống địa ngục nếu Ngài không cứu con. Xin hãy cứu con. Con sẽ đi bất cứ đâu Ngài muốn, dù có mưa đá hay bão tố, nếu Ngài cho phép con nghe được Tin lành thật. Nếu Ngài bỏ con, con sẽ xuống địa ngục. Con cầu xin Ngài cứu con.” 
Những người biết rằng họ đang đi đến địa ngục, những người từ bỏ việc cố gắng tự mình và bám vào Đức Chúa Trời, đó là những người có thể được sự cứu rỗi. Chúng ta không bao giờ có thể tự mình được sự cứu rỗi. 
Chúng ta phải biết rằng chúng ta giống như người đã gặp kẻ cướp.
 
Bài giảng này cũng có sẵn ở định dạng sách điện tử. Nhấp vào bìa sách bên dưới.
BẠN ĐÃ THẬT SỰ ĐƯỢC SANH LẠI BẰNG NƯỚC VÀ THÁNH LINH CHƯA? [Ấn Bản Mới Được Sửa Đổi]