Search

Bài giảng

Chủ đề 9: Sách Rô-ma (Giải nghĩa sch Rô-ma)

[Chapter 3-1] Giới thiệu Sách Rô-ma đoạn 3

Phao-lô nói rằng lòng vô tín của con người không làm cho sự thành tín của Đức Chúa Trời vô hiệu. Tiếp theo đoạn 2, Sứ đồ Phao-lô vạch ra trong đoạn này rằng người Do-thái không có lợi thế trên người ngoại bang. Trong đoạn này, Phao-lô so sánh giữa luật pháp và luật của sự công chính của Đức Chúa Trời trước khi ông nói về luật công chính của Đức Chúa Trời, luật đó cho phép tội nhân nhận sự công chính của Ngài và dẫn họ đi vào cuộc sống thật. Oâng cũng nhấn mạnh trong đoạn này rằng sự cứu rỗi thì không do việc làm của chúng ta, nhưng do đức tin trong sự công chính của Đức Chúa Trời. 
Sứ đồ Phao-lô nói rằng mặc dù người Do-thái và những người khác không tin vào sự công chính của Đức Chúa Trời, sự vô tín của họ không làm cho sự công chính của Ngài vô hiệu. Đức Chúa Trời không thể nói dối và sự thành tín của sự công chính của Đức Chúa Trời cũng không biến mất. Hiệu quả sẽ không bị hủy bỏ chỉ vì người Do-thái không tin vào sự công chính của Ngài. 
Sự công chính của Đức Chúa Trời mà Phao-lô rao giảng không thể bị hủy bỏ chỉ vì người ta không tin. Bất cứ ai tin vào sự cứu rỗi mà Đức Chúa Trời ban cho tội nhân sẽ nhận sư công chính của Đức Chúa Trời, ỉ và sự công chính này là toàn vẹn giữa đạo đức và tư tưởng con người. 
Phao-lô quy tội cho những ai không tin vào sự công chính của Đức Chúa Trời thì cho là Ngài nói láo. Đức Chúa Trời phán rằng Ngài cứu toàn vẹn con người ra khỏi tội lỗi của họ bởi sự công chính của Ngài nhưng họ không tin điều này, vì thế, Ngài bị cho là người nói dối. Tuy nhiên, Sự công chính của Đức Chúa Trời thì không ảnh hưởng gì bởi sự không tin của họ. 
 
 

Sự công chính của Đức Chúa Trời bày tỏ thế nào? 

 
Những ai không tin vào sự công chính của Đức Chúa Trời sẽ bị phán xét vì tội của họ. Tất cả chúng ta có thể xác định sự công chính của Đức Chúa Trời với sự cứu rỗi mà Ngài ban cho. Những ai tin vào sự công chính của Ngài nhận sự tha tội và được sự sống đời đời. Vì thế, mọi người có thể được phước bởi tin và sự thành tín của sự công chính của Đức Chúa Trời. 
Sự công chính của Đức Chúa Trời thì không là giả dối, nhưng là thật. Mọi người thì giả dối trước Đức Chúa Trời. Nhưng Đức Chúa Trời làm việc như lời Ngài hứa và hoàn thành lời hứa đó. Vì thế, sự thành tín của Đức Chúa Trời thắng sự dối trá của loài người. Con người phải tin vào sự công chính của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời thì không thay đổi những gì Ngài đã phán, trong khi con người thường hay thay đổi thái độ của họ theo những phán đoán tùy hoàn cảnh. Đức Chúa Trời luôn luôn giữ sự chân thật cho những gì Ngài đã phán cùng loài người. 
Rô-ma 3:5 nói rỏ, “Song nếu sự không công bình của chúng ta tỏ ra sự công bình của Đức Chúa Trời, thì sẽ nói làm sao?” Sự không công chính của con người bày tỏ sự công chính của Đức Chúa Trời. 
Sự công chính của Đức Chúa Trời được bày tỏ xa hơn nữa bởi sự yếu đuối của chúng ta. Tại sao điều này được ghi lại, Chính Đức Chúa Jêsus đã hành động cách công chính để cứu tội nhân ra khỏi tội của họ. Vì thế, sự công chính của Đức Chúa Trời chiếu sáng hơn vì sự yếu đuối của con người. Lẽ thật này có thể tìm thấy trong Phúc âm của Nước và Thánh Linh, mà nó làm đầy với sự công chính của Đức Chúa Trời. Lý do cho việc này là vì tất cả mọi người sẽ phạm tội cho đến ngày họ chết và tình yêu của Đức Chúa Trời là lớn hơn tội đó. Tình yêu của Đức Chúa Trời cứu tất cả những tội nhân yếu ớt ra khỏi tội. 
Chúa chúng ta đắc thắng tất cả mọi tội lỗi của thế gian và hoàn thành sự cứu rỗi của Ngài qua sự tha tội. Không một ai có thể sống một cuộc sống vô tội. Vì con người được dành cho địa ngục, Đức Chúa Trời chăm sóc họ bằng tình yêu của Ngài và đây là sự công chính của Ngài. 
Con người chúng ta là dối trá từ ngày chúng ta được sanh ra và chối từ sự công chính của Đức Chúa Trời bởi không tin Lời Ngài. Con người xứng đáng để bị kết tội trước Đức Chúa Trời vì không một công việc nào của họ được chấp nhận trước mắt của Ngài. Nhưng Đức Chúa Trời cứu chúng ta ra khỏi tội của chúng ta bằng tình yêu của Ngài vì Ngài thương xót chúng ta. Tất cả con người xứng đáng đi vào địa ngục vì họ bị hư hỏng bởi sự lừa dối của Satan và tất cả họ đều phạm tội. 
Sứ đồ Phao-lô nói rằng một người có thể cố gắng để cư xử cách đúng đắn mỗi ngày, nhưng anh/chị ấy không ngăn chận được việc phạm tội trong suốt cuộc sống của anh/chị ấy. Tuy nhiên, sự gian ác của con người sẽ bày tỏ thêm nữa sự công chính và tình yêu của Đức Chúa Trời. Trong lẽ thật, con người không có sự công chính và như thế họ cần một sứ giả giống như Sứ đồ Phao-lô. Oâng biết và nhận sự công chính của Đức Chúa Trời, và vì thế có Đức Thánh Linh ngự trị trong ông. Đó là tại sao ông có thể rao giảng sự công chính của Ngài. 
 
 

Phúc âm mà Phao-lô rao giảng được căn cứ trên nền tảng sự công chính của Đức Chúa Trời 

 
Phúc âm mà Phao-lô rao giảng được căn cứ trên sự công chính của Đức Chúa Trời. Phao-lô phải rao giảng Phúc âm vì Đức Chúa Trời yêu tội nhân và cứu họ ra khỏi tội lỗi của họ. Tình yêu của sự giải phóng của Đức Chúa Trời là ở trong Phúc âm của Nước và Thánh Linh. Vì thế, sự tha tội tùy thuộc vào đức tin của chúng ta trong sự công chính của Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, vấn đề là con người suy nghĩ cách chung rằng họ phải sống đạo đức để được cứu. Con người không thể tốt căn cứ vào bản năng căn bản của họ; vẽ tốt đẹp bề ngoài chỉ trở nên một chướng ngại vật trong sự tiếp nhận sự công chính của Đức Chúa Trời. Người ta phải cất bỏ những định kiến của cuộc sống đạo đức của họ để chấp nhận Phúc âm của phép cắt bì thuộc linh mà Đức Chúa Trời đã ban cho. 
Không một ai trên đất có thể thật sự là tốt lành. Thế thì làm thế nào tội nhân có thể được cứu ra khỏi tội của họ? Họ phải vứt bỏ tư tưởng rằng họ nên sống cuộc sống tốt lành để được cứu. Nhiều người từ chối từ bỏ tư tưởng và tiêu chuẩn của họ; vì thế, họ không thể được cứu toàn vẹn khỏi tội lỗi. Sự công chính của Đức Chúa Trời được bày tỏ ra trong Phúc âm của phép cắt bì thuộc linh làm cho chúng ta nhận thức về sự sự không công chính của chúng ta chỉ để bày tỏ tình yêu của Đức Chúa Trời và sự công chính của Ngài vĩ đại như thế nào. Vì lý do này, những ai tin vào sự sự công chính của Đức Chúa Trời thì tự hào về sự công chính của Ngài và không là của họ. Người công chính chỉ tự hào về sự sự công chính của Đức Chúa Trời và tôn sự công chính của Ngài lên vì nó là từ Đức Chúa Trời. 
Sứ đồ Phao-lô dạy về vai trò luật pháp cho những người theo chủ nghĩa luật pháp là những người tin họ sẽ được lên Thiên đàng nếu họ làm những việc tốt, nhưng nếu họ không sống một cuộc sống đạo đức sau khi tin Chúa Jêsus, họ có thể không bao giờ đạt đến sự sự công chính của Đức Chúa Trời. Luật pháp thì giống như một cái gương soi để bày tỏ tội lỗi của con người. Phao-lô dạy rằng những người có đức tin vương giả và đức tin đó của họ là sai. Đây là lời dạy của Phao-lô và sự hướng dẫn của ông đối với sự công chính của Đức Chúa Trời. 
Phao-lô nói với những người theo giáo sư giả họ không nghĩ họ sẽ đạt đến sự công chính và sự vô tội sau khi tin Chúa Jêsus. Oâng dạy những người vô tín hãy tin sự công chính của Đức Chúa Trời và được thoát khỏi hình phạt. Phao-lô nói rằng những ai không tin vào sự cứu rỗi của nước và huyết của Chúa Jêsus thì ở dưới sự phán xét và vì họ không tin Đức Chúa Trời nên thật xứng đáng cho họ bị phán xét. Oâng nói rằng tội nhân nên quay về với sự công chính của Đức Chúa Trời và nhận sự công chính của Ngài để được thoát khỏi sự phán xét kinh khiếp. 
 
 

Vậy thì chúng ta có thể phạm tội nữa vì chúng ta tin vào sự công chính của Đức Chúa Trời không? 

 
Câu 7 nói rõ, “Nhưng, nếu lẽ thật Đức Chúa Trời bởi sự nói dối của tôi mà được sự vinh hiển lớn hơn, thì sao tôi còn bị đoán xét như kẻ có tội?” Nếu chúng ta được gọi là vô tội, chúng ta có thể phạm tội tự do không? Phao-lô chứng minh điểm này. Vì Đức Chúa Trời cứu bạn bởi sự công chính của Ngài, thế thì bạn được tự do phạm tội không? Nếu bạn tin như thế, thì bạn nên biết rằng bạn không biết sự công chính của Đức Chúa Trời và bạn phỉ báng sự công chính của Ngài. 
Ngay cả ngày nay, có nhiều người nhạo báng sự công chính của Đức Chúa Trời trong lòng họ, nó không khác với thời kỳ trước đây. Phao-lô viết khúc Kinh thánh này gần 2000 năm cách đây và ngay cả ngày nay người ta vẫn giữ cách suy nghĩ của họ như thế. 
Đến ngày nay, hầu hết các Cơ-đốc-nhân chưa được tái sanh, không hiểu rằng nếu một người trở nên vô tội, anh/chị ấy có thể phạm tội trên mục đích này. Những người không được tái sanh nhạo cười những người công chính, là những người đã được tái sanh bởi Nước và Thánh Linh, theo những suy nghĩ của họ và nói xấu các thánh đồ tái sanh. Cơ-đốc-nhân danh sách nhạo báng những Cơ-đốc-nhân thật sự tái sanh với những suy nghĩ vô tín của họ. Đức tin thật không được hiểu bởi xác thịt con người. Tội lỗi là những gì mà bạn phạm trong suốt cuộc sống của bạn. Cả người công chính và không công chính chắc chắn phạm tội. Tuy nhiên, những ai từ chối sự công chính của Đức Chúa Trời là phạm tội trong khi những ai tin nó thì vô tội. 
Phao-lô nói với những người không tin, “Mà làm sao! nếu một vài người trong bọn họ không thành tín, thì sự không thành tín của họ có làm cho sự thành tín của Đức Chúa Trời ra hư không sao? Chẳng hề như vậy!” (Rô-ma 3:3) Chỉ vì con người không tin sự công chính của Đức Chúa Trời, sự vô tín của họ không thể hủy bỏ sự công chính của Ngài. Nếu một người tin vào sự công chính của Đức Chúa Trời, anh/chị ấy được cứu. Tuy nhiên, nếu một người không tin, anh/chị ấy không thể nhận sự công chính của Ngài. Đó là sự thật. Sự công chính của Đức Chúa Trời sẽ vững lập đời đời. Những ai đi vào địa ngục không tin Báp-têm của Chúa Jêsus và huyết Ngài và sẽ không bao giờ có thể được sạch tội. Sự công chính của Đức Chúa Trời đưa người tin đến sự tái sanh, sẽ không bao giờ trở thành vô hiệu chỉ vì người ta không tin nó. 
 
 
Nhận sự công chính của Đức Chúa Trời thì không cần đến nổ lực của con người 
 
Nhận sự công chính của Chúa chúng ta thì không cần phải làm gì bởi nổ lực của con người. Chỉ là một sự quan hệ đơn giản trong đức tin của chúng ta trong lẽ thật rằng sự công chính của Đức Chúa Trời là sự tha tội của chúng ta. Một người tin vào lẽ thật của Nước và Thánh Linh thì nhận sự công chính của Đức Chúa Trời bởi đức tin, nhưng một người không tin vào sự công chính của Đức Chúa Trời nhận sự phán xét theo lẽ thật của lời Ngài. 
Vì thế, Đức Chúa Trời sai Đức Chúa Jêsus đến thế gian này và làm cho Ngài trở nên hòn đá vấp phạm và hòn đá ngăn trở cho những ai không tin vào sự công chính của Đức Chúa Trời. Có nhiều người tình nguyện xin vào địa ngục vì họ không muốn tin vào sự công chính của Đức Chúa Trời, mặc dù Chúa Jêsus, hòn đá vấp phạm và hòn đá ngăn trở ban cho họ sự công chính của Đức Chúa Trời bởi trở nên Cứu Chúa của họ. Ngay cả hầu hết những người gian ác được ban cho một phương cách trở nên công chính và đạt đến sự sống đời đời. Ngay cả những người làm việc lành cũng không thể được giải thoát khỏi sự hủy diệt nếu anh/chị ấy không tin vào sự công chính của Đức Chúa Trời, và làm cho họ được tha tội và tái sanh. 
Vì công giá của tội lổi là sự chết, bất cứ ai có tội đều phải bị phán xét. Chúa Jêsus trở thành hòn đá vấp phạm và hòn đá ngăn trở cho những ai cố gắng thiết lập sự công bình riêng của họ và vào Nước Trời mà không tin sự công chính của Đức Chúa Trời. Vì thế, lý do mà người ta bị suy thoái, dù là họ tin Chúa Jêsus, là vì họ không tin sự công chính của Đức Chúa Trời.
Vài người nói rằng họ là tội nhân, là người được cứu khỏi tội, nhưng không có “tội-nhân-được-cứu.” Làm thế nào một người có thể trở nên tội nhân trở lại sau khi được cứu khỏi tội? Một người vô tội nếu người ấy đã được cứu khỏi tội, và một người có tội nếu người ấy chưa nhận sự cứu rỗi. Sẽ không có một người nào có tội ở nước Thiên đàng. Đức Chúa Trời phán, “Bởi cớ ấy kẻ ác chẳng đứng nổi trong ngày đoán xét, Tội nhân cũng không được vào hội người công bình” (Thi thiên 1:5).
Người ta hỏi chính họ với một câu hỏi lớn làm thế nào người ta có thể trở nên công chính trong khi họ phạm tội hằng ngày? Tuy nhiên, không cần để họ lo lắng về vấn đề đó. Trở nên công chính bởi tin sự công chính của Đức Chúa Trời chỉ có thể là Chúa đã cất hết tội lỗi thế gian, cả với tội lỗi trong tương lai của họ trên Ngài bởi Ngài nhận Báp-têm ở sông Giô-đanh và chết trên Thập tự giá, theo cách ấy Ngài hoàn thành tất cả sự công chính của Đức Chúa Trời. Tội nhân có thể trở nên công chính bởi tin sự công chính của Đức Chúa Trời. Bạn vẫn là con nợ mặc dù tất cả nợ của bạn đã được trả rồi không? 
Chúa chúng ta loại trừ tất cả tội của chúng ta bằng sự công chính của Ngài. Chúa cứu những ai có đức tin trọn vẹn trong Phúc âm của Nước và Thánh Linh, vì thế không còn có sự đoán phạt nào cho họ, dù sự yếu đuối của họ thế nào cũng không thành vấn đề. Chúng ta có thể trở nên công chính bởi tin vào sự công chính của Đức Chúa Trời. 
    
 
Suy nghĩ của con người dẫn chúng ta đến sự chết 
 
Suy nghĩ của con người dẫn chúng ta đến sự chết và chúng hình thành từ tâm trí xác thịt. Tư tưởng thuộc linh hình thành từ đức tin trong sự công chính của Đức Chúa Trời. Nó có thể là do ma quỉ thống trị tư tưởng con người. Con người không có sự lựa chọn nào khác trừ ra phạm tội trong xác thịt. Tuy nhiên, một người có đức tin trong sự công chính của Đức Chúa Trời trở nên công chính bởi đức tin trong Báp-têm và huyết của Đức Chúa Jêsus. Người ta không thể trở nên công chính bởi tránh phạm tội. Con người không thể trở nên hoàn toàn vô tội bởi sự thay đổi thể chất để đạt đến tình trạng thánh. Thật là ngu dại cho một Cơ-đốc-nhân nghĩ rằng anh/chị ấy có thể vào thiên đàng bởi trở nên người thánh là người không bao giờ phạm tội trước Đức Chúa Trời. 
Chúng ta có thể được cứu khỏi tội môt lần cho tất cả bởi tin vào sự công chính của Đức Chúa Trời. Hơn nữa, mỗi tội nhân có thể được cứu trọn vẹn khỏi tội của anh/chị ấy nếu anh/chị ấy tin vào ân điển của Phúc âm của Nước và Thánh Linh, mà nó cho những người tin cậy được tái sanh. Theo những quan điểm của loài người thì dường như không thể cho con người trở nên vô tội. Tuy nhiên, nó có thể bởi đức tin trong lời của Đức Chúa Trời. Con người không thể sống mà không phạm tội trong thân thể, nhưng lòng người ta trở nên vô tội nếu người ấy thật sự tin vào sự công chính của Đức Chúa Trời. Thân thể con người cần được thỏa mãn những ước muốn của họ và nó không thể chống lại sự phạm tội trong thể xác vì họ không ngớt thèm khát sự vui thích xác thịt. Đức Chúa Trời nói lẽ thật; người ta có thể trở nên công chính chỉ bởi tin vào Phúc âm của Nước và Thánh Linh, mà Chúa ban cho chúng ta. Chúng ta không thể vào nước Thiên đàng bởi làm việc lành trong xác thịt. Chúng ta chỉ có thể vào Nước Thiên đàng bởi tin vào sự công chính của Đức Chúa Trời. 
 
 
Có một sự khác biệt giữa tâm trí thuộc linh và tâm trí xác thịt 
 
Tâm trí xác thịt không thể hiểu được lẽ thật là Cơ-đốc-nhân tái sanh chỉ có thể trở nên vô tội bởi đức tin và có thể trở người công chính. Vì họ nghĩ rằng dù người ta ăn năn những việc làm sai trái của họ thì họ sẽ phạm tội nữa trong những ngày kế tiếp. 
Tuy nhiên, mặc dù không thể cho một người trở nên công chính qua việc làm của con người, nhưng nó hoàn toàn có thể bởi sự công chính của Đức Chúa Trời. Vì con người có thể nhận sự công chính của Đức Chúa Trời bởi tin Báp-têm của Chúa Jêsus và huyết Ngài. Sự công chính của Đức Chúa Trời có khả năng loại trừ tội lỗi của tất cả mọi người. Nó cho phép chúng ta trở nên công chính và gọi Đức Chúa Trời là Cha. Vì thế, bạn nên biết rằng đức tin thật khởi đầu bởi đức tin trong sự công chính của Đức Chúa Trời. Đức tin thật không thể khởi đầu với tâm trí xác thịt nhưng với đức tin trong lời của lẽ thật. 
Nhiều người không được tái sanh thì không thể thoát khỏi tư tưởng riêng của họ vì họ luôn luôn bị khoá chặt trong chúng. Những người này không bao giờ có thể nói rằng họ trở nên công chính vì họ chỉ nghĩ về tư tưởng xác thịt, mặc dù họ nói họ tin Chúa Jêsus. Người ta có thể nói rằng anh/chị ấy vô tội trước Đức Chúa Jêsus chỉ khi anh/chị ấy tin vào lời của phép cắt bì thuộc linh, trong đó có chứa đựng sự công chính của Đức Chúa Trời. 
Vì thế, nếu một người muốn nhận sự công chính của Đức Chúa Trời, anh/chị ấy nên lắng nghe lời của lẽ thật từ những người đã thật tái sanh và tin nó vớiù tấm lòng. Đức Thánh Linh ngự trị trong mỗi thánh đồ là người tin sự công chính của Đức Chúa Trời. Tôi hy vọng anh chị em giữ lẽ thật này trong trí. Nếu bạn thật sự muốn nhận được phước của sự tái sanh, Đức Chúa Trời sẽ cho phép bạn gặp được người tái sanh là ngưòi tin vào sự công chính của Đức Chúa Trời. 
 
 
Bạn nói rằng không một ai công chính?
 
Câu 9 và 10 nói rõ, “Thế nào! Chúng ta có điều gì hơn chăng? Chẳng có, vì chúng ta đã tỏ ra rằng người Giu-đa và người Gờ-réc thảy đều phục dưới quyền tội lỗi, như có chép rằng: Chẳng có một người công bình nào hết, dẫu một người cũng không.” Như có chép rằng không có người công chính dẩu một người cũng không. 
Điều này có nghĩa là gì? Những từ này nói về tình trạng của chúng ta trước hay là sau khi chúng ta được tái sanh? Tất cả chúng ta đều là tội nhân trước khi được tái sanh. Cụm từ, “không có người công bình” chỉ tỏ tình trạng trước khi Chúa Jêsus hoàn thành chức vụ tha tội cho tất cả tội lỗi thế gian. Người ta không thể trở nên công chính khi không tin Chúa Jêsus. 
Vì thế, những từ, “thánh hoá từ từ” tồn tại qua những người phục vụ tà giáo hay thần tượng. “Không có người công chính dẩu một người cũng không.” Bạn nghĩ rằng một tội nhân có khả năng trở nên công chính bởi qua tự luyện tập hay sự dạy dổ không? Người ta không thể trở nên công chính bởi chính họ. 
“Không có người công chính dẩu một người cũng không.” Không có một ai trở nên công chính hay đã trở nên công chính qua những gì thuộc về con người trong cuộc sống theo khuôn phép. Không có dầu một người trở nên vô tội qua những cố gắng riêng của họ. Nó chỉ có thể qua đức tin trong phép cắt bì thuộc linh trong đó có chứa đựng sự công chính của Đức Chúa Trời. 
Câu 11 cũng nói, “Chẳng có một người nào hiểu biết, Chẳng có một người nào tìm kiếm Đức Chúa Trời.” Không có một người nào hiểu biết về chính tội của họ. Nói cách khác, không có một ai hiểu rằng anh/chị ấy sẽ bị đày đi địa ngục. Một tội nhân thì không thể biết mình là tội nhân. Một tội nhân sống mà không biết rỏ rằng anh/chị ấy là một trong những người bị đi vào địa ngục. Người ta cố gắng nhận sự cứu rỗi khỏi tội bởi hiểu rằng anh/chị ấy xứng đáng đi vào địa ngục vì tội. Tuy nhiên, dầu một người cũng không có hiểu về bản chất tội lỗi của họ trước Đức Chúa Trời hay số phận của anh/chị ấy là đi địa ngục. 
Chúng ta có phải là những sinh vật ích lợi trước Đức Chúa Trời hay không? Toàn thể nhân loại là vô ích cho đến khi họ được tái sanh. Mặc dù tất cả chúng ta trở nên công chính nhờ vào Ngài, có phải chúng ta đã không một lần là người chống đối lại với Đức Chúa Trời, từ chối tin vào lẽ thật và ngay cả quy tội cho Ngài không? 
Thế thì, làm thế nào một tội nhân có thể làm vinh hiển Đức Chúa Trời? Làm thế nào một tội nhân, ngay cả những người không ở trong nan đề của tội lỗi, ca ngợi Đức Chúa Trời? Ngợi khen Đức Chúa Trời trong tình trạng của một tội nhân thì không thể gọi là sự tôn kính thật. Làm thế nào một tội nhân có thể ca ngợi Đức Chúa Trời? Một tội nhân không bao giờ có thể mang sự vinh hiển về cho Đức Chúa Trời, và Ngài không chấp nhận bất cứ một điều gì từ những người như thế. 
Ngày nay, chức vụ ngợi khen đã được rao truyền ra khắp thế giới. Tuy nhiên, chỉ những ai tin vào sự công chính của Đức Chúa Trời mới có thể ngợi khen Đức Chúa Trời. Bạn nghĩ rằng Đức Chúa Trời hài lòng bởi sự ngợi khen của một tội nhân không? Sự ngợi khen của tội nhân giống như của lể của Ca-in. Tại sao Đức Chúa Trời không chấp nhận những lời ngợi khen vô nghĩa và lòng đầy tội lỗi của tội nhân? 
Câu 12 nói, “Chúng nó đều sai lạc cả, thảy cùng nhau ra vô ích; Chẳng có một người làm điều lành, dẫu một người cũng không.” Những tội nhân đó đều “sai lạc” không biết công việc vĩ đại của Đức Chúa Trời đã làm cho họ, và không tin Ngài cũng như Lời của lẽ thật. Hơn thế nữa, tội nhân không chỉ từ chối giữ Lời Đức Chúa Trời hay tin vào nó mà họ còn luôn luôn suy nghĩ nghiên theo xác thịt căn cứ trên tư tưởng riêng của họ. Vì thế, họ không bao giờ phân biệt rỏ giữa những gì xấu và tốt trước Đức Chúa Trời. 
Sự xét đoán đúng chỉ có thể bởi lời của lẽ thật mà nó chứa đựng sự công chính của Đức Chúa Trời. Những quyết định tốt và phán xét đúng chỉ có thể thực hiện trong sự công chính của Đức Chúa Trời. Bạn nên biết rằng tất cả những sự phán xét theo luật pháp không nằm trong con người nhưng trong sự công chính của Đức Chúa Trời. Những tư tưởng của con người đều sai lạc cả và từ chối sự công chính của Đức Chúa Trời. Con người nói, “Tôi nghĩ theo cách này và tin theo tư tưởng riêng của tôi, không ảnh hưởng gì đến việc Kinh thánh nói.” Nhưng tôi hy vọng bạn nhận ra rằng một người không từ bỏ tư tưởng riêng của họ cũng như thể người từ chối sự công chính của Đức Chúa Trời với sự bướng bỉnh ích kỷ của họ. Vì thế, suy nghĩ theo cách này không cho phép con người quay trở về với sự công chính của Đức Chúa Trời. 
 
 
Suy nghĩ theo xác thịt dẫn linh hồn con người đến chổ chết 
 
Ngưòi chưa được tái sanh là người tự phán xét lấy chính mình. Những loại người này thật sự không quan tâm những gì được viết trong lời Đức Chúa Trời, nhưng thay vào đó, nếu có gì khác trong tư tưởng họ thì họ cho đó là sai và chỉ chấp nhận những phần phù hợp với tư tưởng riêng của họ. Kinh thánh chỉ rỏ rằng loài người là sai lạc trong tư tưởng riêng của họ và tự cho mình là trung tâm. Nếu một người hy vọng được giải thoát khỏi tội lỗi trong phương cách thích đáng, anh/chị ấy cần sự công chính và sự công bình của Đức Chúa Trời. Sự công bình của Ngài là gì? 
Sự công bình của Đức Chúa Trời là sự công chính của Đức Chúa Trời và bạn nên biết rằng lời của Đức Chúa Trời là tiêu chuẩn cho sự công bình ngay thẳng của Đức Chúa Trời. “Ban đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời, và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời” (Giăng 1:1). Người này là ai mà được gọi là “Ngôi Lời”? Người này là ai mà ở với Đức Chúa Cha và Đức Thánh Linh? Ngài là Cứu Chúa của chúng ta, Đức Chúa Jêsus Christ. Đức Chúa Jêsus Christ trở nên Cứu Chúa của chúng ta và là Vua của muôn vua, Chúa Jêsus là Đức Chúa Trời. 
Giăng nói rằng Ban đầu có Ngôi Lời và Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời. Vâng, Chúa Jêsus là Cứu Chúa của chúng ta. Lời của Đức Chúa Trời và Ngài là hình bóng của bản thể Ngài.(Hê-bơ-rơ 1:3) Cứu Chúa là Đức Chúa Trời. Vì thế, vì Ngôi Lời chính là Đức Chúa Trời nên lời của sự công chính của Ngài thì khác với tư tưởng của con người chúng ta. Bạn phải nhận ra rằng tội nhân dám hiểu sự công chính của Đức Chúa Trời qua khả năng nhận thức riêng của họ khi họ không biết về sự công chính của Đức Chúa Trời. Một người đứng vững trong đức tin trong sự công chính của Đức Chúa Trời là một người có ích, là người được dùng cho công việc lành bởi Đức Chúa Trời. Loại người này cũng được phước. 
Tất cả những người chống đối với Đức Chúa Trời với tư tưởng riêng của họ và tội lỗi. Bạn nên biết rằng yêu cầu của con người là thánh và tốt lành, hay giả vờ tử tế và có sự thương xót người khác, tất cả là hành động giả hình mà nó đến từ tư tưởng riêng của con người là lừa dối Đức Chúa Trời. Tham vọng trở nên tốt là chống lại với Đức Chúa Trời. Không một ai là tốt lành ngoại trừ Ngài. Nếu một Cơ-đốc-nhân không chấp nhận tình yêu mà Ngài đã hoàn thành và sự công chính của sự cứu rỗi mà không được tái sanh, đó là chống lại với Đức Chúa Trời và không vâng phục lẽ thật. 
Bạn có nghĩ rằng chỉ những ai phạm những tội trọng trong thế gian này là đang nhận sự trừng phạt của Đức Chúa Trời không? Tất cả những ai không tin vào sự công chính của Đức Chúa Trời sẽ không được miễn trừ khõi cơn thạnh nộ kinh khiếp của Đức Chúa Trời. 
Người không tin Chúa Jêsus trong lẽ thật đầy những quan niệm bắt buộc phải sống một cuộc sống tốt lành. Ai dạy những ý tưởng như thếù? Satan làm điều đó. Tuy hhiên con người không có khả năng sống cuộc sống tốt lành khởi từ ngày sanh ra. Vì thế, lời của Đức Chúa Trời phán với chúng ta rằng chúng ta phải nhận sự tha tội. Điều này có nghĩa là chúng ta nên làm điều ác để ân điển được gia thêm không? Chắc chắn là không. Vì con người tiêm nhiểm tội lỗi từ ngày mới sanh ra, họ được định trước để đi vào địa ngục vì những thương tích của tội lỗi dơ bẩn. Vì thế, Đức Chúa Trời phán với họ hãy nhận sự tha tội mà Chúa Jêsus đã chuẩn bị sẳn cho họ rồi. Ngài là Đức Chúa Trời của sự cứu rỗi và khuyên chúng ta chấp nhận sự cứu rỗi bởi chấp nhận lời của sự công chính của Ngài, mà nó là lẽ thật ở trong lòng chúng ta. 
 
 
Bản tính của con người là gì?
 
Câu 13-18 nói, “Họng chúng nó như huyệt mả mở ra; Dùng lưỡi mình để phỉnh gạt; Dưới môi chúng nó có nọc rắn hổ mang. Miệng chúng nó đầy những lời nguyền rủa và cay đắng. Chúng nó có chân nhẹ nhàng đặng làm cho đổ máu. Trên đường lối chúng nó rặc những sự tàn hại và khổ nạn, Chúng nó chẳng hề biết con đường bình an. Chẳng có sự kính sợ Đức Chúa Trời ở trước mặt chúng nó.”
“Miệng chúng nó đầy những lời dối trá.” Tất cảnhững người này lừa dối hay làm sao! Trong Giăng viết, “Khi nó nói dối, thì nói theo tánh riêng mình” (Giăng 8:44). “Tôi nói thật. Đó là sự thật. Bạn hiểu tôi không?” Tất cả những lời của người chưa được tái sanh khi xác định là đúng thì nó là sai. 
Một người chưa được tái sanh không thể tránh được lời nói dối trong bất cứ khi nào anh/chị ấy nói với ngươì khác. Anh/chị ấy nhấn mạnh rằng tất cả những gì anh/chị ấy nói là thật, nhưng đó là chứng cớ nghịch lý để chứng minh rằng mọi lúc anh/chị ta đều nói dối, anh/chị ấy lừa dối người ta bởi nói rằng đó là sự thật. Tất cả những điều mà một người chưa tái sanh nói là sai vì anh/chị ấy không tin vào sự công chính của Đức Chúa Trời. 
Một kẻ lừa đối không bao giờ làm một việc trái luật sau khi nói với người khác rằng anh ta chính là người gian lận. Anh ta nói như thể là thật. Anh nói với người khác một cách thật tình và thành thật để người ta tin cậy anh. “Tôi nói với bạn rất, rất, rất, rất thật. Nếu bạn đầu tư một ít tiền vào việc này bạn sẽ thu nhặt hàng tấn tiền. Đây là loại công việc mới nhất và nó hoàn toàn an toàn. Tiến lên, bạn hãy nhanh lên và quyết định vì nhiều người khác đang chờ đợi.” Đây là những gì mà kẽ lường gạt nói với ngươì khác. Bạn hãy nhớ rằng một người chưa nhận sự tha tội luôn thực hành sự lừa dối bằng lời của anh/chị ấy. 
Kinh thánh nói rằng khi Satan nói dối, nó nói từ ý tưởng riêng của nó. Mọi việc của một người chưa được tái sanh nói là lời nói dối. Không cần phải ngạc nhiên một Mục sư chưa được tái sanh lừa dối thành viên trong Hội Thánh là họ sẽ giàu nếu họ dâng một số tiền lớn cho Hội Thánh. Hơn thế nữa, ông nói rằng khi một người trở nên trưởng lão trong Hội Thánh, người sẽ trở nên giàu bởi “phước hạnh không dò được của Đức Chúa Trời.” Tại sao người ta cố gắng cách khó nhọc để trở nên Trưởng lão? Là vì lời nói dối của mục sư giả là người tuyên bố rằng Đức Chúa Trời sẽ đổ đầy trên ngươì ta bằng sự giàu có vật chất một khi anh/chị ấy trở thành Trưởng lảo. Có quá nhiều Cơ-đốc-nhân sống trong cảnh thiếu thốn vật chất sau khi cố gắng trở thành Trưởng lão. Họ phải trả một sự dâng hiến qua mức cho các Mục sự lừa đảo của họ vì mong muốn là Trưởng lảo. 
Xin hãy chú ý đến Rô-ma 3:10. Cụm từ, “như có chép,” chỉ cho chúng ta rằng những câu sau đây được trích dẫn từ Kinh thánh Cựu-ước. Để cho lời giải thích thêm, Phao-lô trích cụm từ chính xác từ Kinh thánh gốc: “Vì nơi miệng chúng nó chẳng có sự thành tín; Lòng chúng nó chỉ là gian tà; Họng chúng nó là huyệt mả mở ra; Lưỡi chúng nó đầy dẫy điều dua nịnh.” (Thi-thiên 5:9). “Chân họ chạy đến điều ác, nôn nả làm đổ máu vô tội; tư tưởng họ là tư tưởng gian tà, sự phá hại diệt vong là ở trên đường lối họ.” (Ê-sai 59:7). Người ta đi đến địa ngục vì họ không biết sự công chính của Đức Chúa Trời thật là quá đáng thương. 
Câu 19 nói, “Vả, chúng ta biết rằng những điều mà luật pháp nói, là nói cho mọi kẻ ở dưới luật pháp, hầu cho miệng nào cũng phải ngậm lại, cả thiên hạ đều nhận tội trước mặt Đức Chúa Trời.” 
Luật pháp mang cơn thạnh nộ đến (Rô-ma4:5). Đức Chúa Trời ban luật pháp cho những ai chưa được tái sanh để làm cho họ nhận ra chính họ là tội nhân. Luật pháp dạy cho mỗi tội nhân rằng anh/chị ấy là không đủ tự cách sống theo luật pháp của Ngài. Nó nói rỏ rằng Đức Chúa Trời không ban cho chúng ta luật pháp để chúng ta sống theo đó. Đức Chúa Trời làm cho luật pháp vô hiệu chăng? Không, Ngài không làm thế. Đức Chúa Trời nói rằng Ngài ban luật pháp qua Môi-se để dạy chúng ta rằng chúng ta là tội nhân. Ngài muốn chúng ta nhận ra bản chất tội lỗi của chúng ta qua luật pháp và nó không được ban cho để chúng ta làm theo. Vai trò của luật pháp là chỉ ra sự thiếu hụt và nhu nhược trong con người của chúng ta. 
Vì thế câu 20 nói, “Vì chẳng có một người nào bởi việc làm theo luật pháp mà sẽ được xưng công bình trước mặt Ngài, vì luật pháp cho người ta biết tội lỗi.” Không một ai được xưng công bình theo việc làm của luật pháp. Không chỉ một mình Phao-lô, nhưng cũngcho tất cả các đầy tớ khác của Đức Chúa Trời, “Vì chẳng có một người nào bởi việc làm theo luật pháp mà sẽ được xưng công bình trước mặt Ngài by the deeds of the law no flesh will be justified in His sight.” Không một ai có thể giữ luật pháp, không một ai có khả năng giữ nó, không một ai đã giữ nó. Vì thế, kết luận là không một ai trở nên công chính vì giữ việc làm của luât pháp. 
Chúng ta có thể được biến đổi trở nên người công chính vì giữ luật pháp không? Khi chúng ta xem đoạn Kinh thánh này, chúng ta có thể dể dàng nghĩ rằng chúng ta có thể trở nên thánh từng bưóc một, để cuối cùng đạt đến sự thánh hóa bởi sống một đời sống tốt lành sau khi trở nên tín đồ của Chúa Jêsus. Tuy nhiên, điều này không đúng gì cả. Nói rằng một người có thể vào nước Thiên đàng bởi được nên thánh từ từ là hoàn toàn sai. 
Tất cả những người chưa được tái sanh thì vẫn ở dưới luật pháp của Đức Chúa Trời, luật của tội lỗi và sự chết (Rô-ma 8:2). Vì một khi một người trở thành Cơ-đốc-nhân, anh/chị ấy nghĩ rằng anh/chị ấy phải sống bởi lời của Đức Chúa Trời. Cơ-đốc-nhân cảm thấy bắt buộc phải giữ luật pháp bằng việc làm của họ nhưng trong thực tế, họ không thể sống bởi luật pháp gì cả. Đó là lý do tại sao họ nói lời cầu nguyện ăn năn mỗi ngày. Họ không nhận ra rằng họ đang rơi vào vũng bùn của một tôn giáo vô vọng; mang tên Cơ-đốc-giáo. Điều này chứng minh rằng sống trong đời sống tôn giáo này là sai từ lúc khởi đầu. Cố gắng giữ luật pháp Đức Chúa Trời sau khi không hiểu luật pháp dẫn những người-tôn-giáo-Cơ-đốc đến với chổ đối diện với sự công chính của Đức Chúa Trời, mặc dù luật pháp chỉ là để dạy con ngươì biết rằng họ là tội nhân. 
Giáo lý nên thánh từng phần trong Cơ-đốc-giáo thì giống như giáo lý tôn giáo của các tôn giáo ngoại đạo trên thế giới. Tương tự như giáo lý Nirvana trong Phật giáo, trong Cơ-đốc-giáo, giáo lý nên thánh từ từ chỉ tỏ rằng xác thịt con người và linh hồn trở nên thánh hơn và thánh hơn sau khi một người bắt đầu tin Chúa Jêsus, và cuối cùng trở nên thánh để vào Thiên đàng. 
Người ta sanh ra bị ảnh hưởng của tội lỗi có thể chỉ để làm công việc là gieo rắc tội lỗi trong suốt cuộc sống họ. Lý do cho việc này là vì ngươì ta đã bị tiêm nhiễm tội lỗi. Con “siêu vi trùng” của tội phát ra từ thân thể của con người dù cho nguời ấy không muốn gieo rắc tội. Chỉ có một phương cách chữa cho bệnh này. Đó là lắng nghe và tin lời của Phúc âm thật chứa đựng trong sự công chính của Đức Chúa Trời. Người ta có thể được cứu khỏi tất cả tội lỗi và ngay cả nhận sự sống đời đời nếu người ta nghe và tin lời của lẽ thât về sự tha tội, mà nó làm cho chúng ta có thể nhận được phép cắt bì thuộc linh. 
Có thể có một người trong thế gian này sống cuộc sống trọn lành theo luật pháp ngay sau khi anh/chị ấy tái sanh không? Không có một ai. Kinh thánh nói, “Bởi luật pháp là để biết tội” (Rô-ma 3:20). Điều này không rỏ ràng và đơn giản sao? A-đam và Ê-va bỏ lời Đức Chúa Trời bởi không tin và rơi vào tội lỗi bởi bị sự lừa dối của Satan trong thời đại vô tội, và họ đã lưu truyền tất cả tội lỗi đến hậu tự của họ sau sự việc xảy ra. Tuy nhiên, mặc dù tất cả loài người thừa kế tội từ tổ phụ họ, họ thật sự không biết rằng khi họ sanh ra đã là tội nhân. 
Từ thời kỳ Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời ban cho con người sự hiểu biết cụ thể về sự công chính của Ngài để tất cả mọi ngươì nhận sự tha tôi bởi tin vào lời của Đức Chúa Trời. 
 
 
Phao-lô nói về sự công chính của Đức Chúa Trời tách rời luật pháp 
 
Câu 21-22 viết, “Nhưng hiện bây giờ, sự công bình của Đức Chúa Trời, mà luật pháp và các đấng tiên tri đều làm chứng cho, đã bày tỏ ra ngoài luật pháp: tức là sự công bình của Đức Chúa Trời, bởi sự tin đến Đức Chúa Jêsus Christ, cho mọi người nào tin, chẳng có phân biệt chi hết.” Kinh thánh nói rằng sự công chính của Đức Chúa Trời được bày tỏ. “mà luật pháp và các đấng tiên tri đều làm chứng cho.” “Luật pháp và các Đấng Tiên tri” ngụ ý Kinh thánh Cựu-ước. Bây giờ Phao-lô nói về Phúc âm của sựỉ công chính của Đức Chúa Trời được bày tỏ qua hệ thống tế lễ của Đền tạm. Kinh thánh bày tỏ cho chúng ta cách rỏ ràng về sự công chính của Đức Chúa Trời bởi con người có thể nhận sự tha tội qua của lễ chuộc tội, và đức tin Phao-lô cũng là căn bản cho đức tin trong sự công chính của Đức Chúa Trời, mà nó được bày tỏ ra trong cả Kinh thánh. 
Phao-lô tuyên bố rằng mọi ngươì có đức tin trong Đức Chúa Jêsus Christ có thể nhận sự công chính của Đức Chúa Trời. Sự sống của con người được cứu hay không là hoàn toàn tùy thuộc vào đức tin hay sự vô tín của người ấy. Vì thế, ông nói rằng sự công chính của Đức Chúa Trời được bày tỏ “qua đức tin trong Đức Chúa Jêsus Christ, cho mọi người nào tin, chẳng có phân biệt chi hết.” 
Đức tin thật là gì? Ai là nền tảng của đức tin? Đó là Đức Chúa Jêsus Christ. Hê-bơ-rơ 12:2 nói,“nhìn xem Đức Chúa Jêsus, là cội rễ và cuối cùng của đức tin.” Chúng ta nên học lẽ thật từ những thánh đồ tái sanh và nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Jêsus Christ bởi tin vào lẽ thật này và rồi sống bởi đức tin trong lời Đức Chúa Trời. Tin vào sự công chính của Chúa với tấm lòng là có đức tin thật. 
Rô-ma 10:10 viết, “Vì tin bởi trong lòng mà được sự công bình, còn bởi miệng làm chứng mà được sự cứu rỗi.” Chúng ta có thể trở nên công chính bởi tin Báp-têm của Chúa Jêsus và huyết Ngài với cả tấm lòng của chúng ta và được xác định trong sự cứu rỗi của chúng ta bởi xưng nhận đức tin của chúng ta bằng môi miệng mình. Sự tha tội không thể đạt được bởi việc làm của chúng ta, nhưng chỉ bởi đức tin của chúng ta trong sự công chính của Đức Chúa Trời. 
Câu 23-25 viết, “vì mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, và họ nhờ ân điển Ngài mà được xưng công bình nhưng không, bởi sự chuộc tội đã làm trọn trong Đức Chúa Jêsus Christ, là Đấng Đức Chúa Trời đã lập làm của lễ chuộc tội, bởi đức tin trong huyết Đấng ấy. Ngài đã bày tỏ sự công bình mình như vậy, vì đã bỏ qua các tội phạm trước kia.” 
Kinh thánh chép rằng mọi người đều đã phạm tội, và vì thế, họ thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời. Tội nhân không có sự chọn lựa nào khác ngoại trừ đi địa ngục. Tuy nhiên, qua sự cứu chuộc trong Đức Chúa Jêsus Christ và sự công chính của Đức Chúa Trời, con người nhận được sự tha tội cách nhưng không (không đòi giá). Người ta trở nên vô tội vì họ tin vào sự công chính của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã lập Chúa Jêsus để làm nguôi cơn thạnh nộ bởi huyết qua đức tin. 
Khi chúng ta nhìn vào câu 25,26 chúng ta thấy, “là Đấng Đức Chúa Trời đã lập làm của lễ chuộc tội, bởi đức tin trong huyết Đấng ấy. Ngài đã bày tỏ sự công bình mình như vậy, vì đã bỏ qua các tội phạm trước kia, trong buổi Ngài nhịn nhục; tức là Ngài đã tỏ sự công bình Ngài trong thời hiện tại, tỏ ra mình là công bình và xưng công bình kẻ nào tin đến Đức Chúa Jêsus.”
 Ở đây, cụm từ “bày tỏ sự công chính của Ngài” để chỉ tỏ sự công chính của Đức Chúa Trời, được hoàn thành bởi hành động công chính của Đức Chúa Jêsus Christ. Lý do mà Đức Chúa Jêsus Christ chịu đổ huyết trên Thập tự giá là vì trước khi chết, Ngài hoàn thành tất cả sự công chính của Đức Chúa Trời bởi chịu Báp-têm nơi sông Giô-đanh (Ma-thi-ơ 3:13-17) Đức Chúa Cha đặt để Đức Chúa Jêsus như một của tế lễ cho tội lỗi của thế gian để làm sự hoà bình giữa con người và chính Ngài. Chúa Jêsus là hiện thân của sự công chính của Đức Chúa Trời. 
Chúa Jêsus cất tất cả tội lỗi thế gian bởi nhận Báp-têm từ Giăng. Chúa Jêsus trở thành đầu tiên và cuối cùng. Điều này có nghĩa là mọi người có thể nhận sự cứu rỗi nếu anh/chị ấy tin vào Lời được công bố rằng Chúa cất tất cả tội lỗi của thế gian, từ lúc mới bắt đầu cho đến cuối cùng. 
Sự công chính của Đức Chúa Trời đã được Đức Chúa Jêsus Christ hoàn thành cho phép chúng ta được ở hoà bình với Đức Chúa Trời. Chỉ có những ai sống hoà thuận với Đức Chúa Trời mới có thể vào Thiên đàng. Chỉ sau khi khởi sự tin vào Phúc âm của lẽ thật tôi mới hiểu câu “là Đấng Đức Chúa Trời đã lập làm của lễ chuộc tội, bởi đức tin trong huyết Đấng ấy. Ngài đã bày tỏ sự công bình mình như vậy, vì đã bỏ qua các tội phạm trước kia,” trong thời kỳ nhịn nhục của Ngài, tôi hiểu và tin sự công chính của Đức Chúa Trời qua Chúa Jêsus. 
Sự công chính của Đức Chúa Trời được hoàn thành trong thì quá khứ hoàn thành (the past perfect tense,) để chỉ tỏ rằng điều này đã hoàn thành rồi. Chúng ta nhận sự tha tội bởi đức tin trong lời của lẽ thật rằng Chúa Jêsus loại trừ tất cả tội lỗi của chúng ta bởi Báp-têm và huyết của Ngài. Mặc dù linh hồn của chúng ta được tha thứ một lần đủ cả, thể xác chúng ta không hề có lối thoát ngoại trừ sự phạm tội. Đức Chúa Trời quy tội chúng ta phạm trong thế giới hiện tại như là “tội đã phạm trước kia.” 
Tại sao? Đức Chúa Trời đặt để Báp-têm của Chúa Jêsus như là điểm khởi đầu của sự cứu rỗi. Vì thế, sự tha tội được hoàn tất một lần đủ cả qua sự công chính của Đức Chúa Trời, mà Đức Chúa Jêsus Christ đã hoàn thành. Tội mà chúng ta phạm trong xác thịt ở thời điểm này là tội đã được miễn trừ qua Báp-têm của Chúa Jêsus trong quan điểm của Đức Chúa Trời. Tất cả tội của thế gian đã được tha thứ rồi trong ánh mắt Đức Chúa Trời. ‘vì đã bỏ qua các tội phạm trước kia’ nghĩa là ‘quan tâm đến công giá của tội đã được đền trả.’ Tất cả tội của thế gian là tội đã được tẩy sạch bởi Báp-têm của Chúa đã nhận và bởi huyết Ngài trên Thập tự giá. 
Vì thế, tất cả tội lỗi của nhân loại từ khi bắt đầu cho đến khi chấm dứt, từ thời A-đam cho đến ngày cuối cùng của đất, và ngay cả tội lỗi mà con người đang phạm là tội “tội phạm trước kia”, Chúa Jêsus đã loại trừ đi trong quá khứ. Những ai tin vào sự công chính của Đức Chúa Trời thì vô tội. Lẽ thât này là tội phạm trước đây đã được cất đi rồi. Ngay cả tội mà chúng ta phạm ngay lúc này cũng là một phần của tội tội phạm trước đây và được tha thứ trong quan điểm của Đức Chúa Trời. Con người trên thế gian này đang phạm những tội mà nó đã được loại trừ bởi Con Đức Chúa Trời, là Đấng được sai đến thế gian để cất tội lỗi của nhân loại. Tội mà chúng ta vi phạm ngay bây giờ là tội mà Chúa đã loại trừ đi rồi. Bạn có hiểu điều này nghĩa là gì không? 
Chúa Jêsus phán rằng Ngài đã tẩy sạch tội lỗi của thế gian bởi sự công chính của Đức Chúa Trời. Người ta có thể hiểu sai điều này nếu họ không thật sự hiểu ý nghĩa của phân đoạn này. Trong cái nhìn của Chúa, tội lỗi mà nhân loại vi phạm là tội đã được phán xét từ khi chính Ngài nhận Báp-têm ở sông Giô-đanh và bị phán xét trên Thập tự giá. Lý do mà Đức Chúa Trời phán với chúng ta đừụng lo lắng về tội lỗi là vì Chúa Jêsus đã đến thế gian và làm người hy sinh trọn vẹn một lần đủ cả. 
Lẽ thật mà Phao-lô nói trong đoạn văn này thì rất quan trọng cho những ai đã được cứu bởi tin vào sự công chính của Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, người chưa được tái sanh khước từ sựỉ công chính của Đức Chúa Trời và sẽ đi địa ngục. Anh chị em thân mến, các bạn nên lắng nghe và hiểu cách đầy đủ lời Đức Chúa Trời. Chỉ như thế mới tốt cho sự hình thành đức tin của bạn và rao giảng Phúc âm cho người khác. Bạn có biết rằng Đức Chúa Trời khiến thế gian tự cáo về tội lỗi, về sự công chính, và về sự phán xét để cuối cùng người ta quan tâm đến sự công chính của Ngài không? (Giăng 16:8). 
Đức Chúa Trời đặt để Đức Chúa Jêsus như là sự giải hoà bởi huyết Ngài qua đức tin, để bày tỏ sự công chính của Ngài vì trong sự nhịn nhục của Ngài, Đức Chúa Trời đã cất tội lỗi vi phạm ngày trước rồi. Vì thế, chúng ta trở nên công chính bởi tin vào sự công chính của Đức Chúa Trời. 
Trong câu 26 viết, “trong buổi Ngài nhịn nhục; tức là Ngài đã tỏ sự công bình Ngài trong thời hiện tại, tỏ ra mình là công bình và xưng công bình kẻ nào tin đến Đức Chúa Jêsus.” ‘trong thời hiện tại,’ Đức Chúa Trời cho phép chúng ta có sự sống đời đời và Ngài không muốn hình phạt thế gian. “Trong thời hiện tại” khi Đức Chúa Trời sai Đức Chúa Jêsus Christ “để bày tỏ sự công chính của Ngài”, Chúa bày tỏ sự công chính của Đức Chúa Trời bởi Báp-têm và huyết Ngài. Đức Chúa Trời sai Con một Ngài đến thế gian để chịu Báp-têm và đóng đinh và bằng cách ấy Ngài bày tỏ cho chúng ta tình yêu và sự công chính của Ngài. 
Đức Chúa Trời thực hiện sự công chính của Ngài qua Đức Chúa Jêsus. Mỗi người tin vào sự công chính của Đức Chúa Trời là người công chính. Đức Chúa Trời của chúng ta đã thực hiện hành động công chính để cất tội lỗi thế gian một lần và cho tất cả. Chúng ta có thể tin vào sự công chính của Đức Chúa Trời bởi lòng của chúng ta không? Đức Chúa Trời phán rằng chúng ta là người công chính và vô tội khi chúng ta tin vào sự công chính của Ngài. Tại sao? Một tín đồ trong Chúa Jêsus thì không vô tội khi Ngài đã thực hiện hành động công chính để tẩy sạch tội lỗi chúng ta sao? Một người tin vào sự công chính của Đức Chúa Trời là người công chính vì anh/chị ấy vô tội. Vì Chúa đã cất tất cả tội lỗi mà chúng ta vi phạm trong suốt cuộc sống của chúng ta, chúng ta có thể tin vào sự công chính của Đức Chúa Trời. Mặc khác, chúng ta sẽ không bao giờ có thể nhận sự công chính của Đức Chúa Trời. 
 
 
Chỉ khoe mình về sự công chính của Đức Chúa Trời 
 
Câu 27-31 viết, “Vậy thì sự khoe mình ở đâu? Đã bị trừ bỏ rồi. Bởi luật pháp nào? Luật pháp của việc làm chăng? Không phải, nhưng bởi luật pháp của đức tin; vì chúng ta kể rằng người ta được xưng công bình bởi đức tin, chớ không bởi việc làm theo luật pháp. Hay là, Đức Chúa Trời chỉ là Đức Chúa Trời của dân Giu-đa sao? Há chẳng phải cũng là Đức Chúa Trời của dân ngoại ư? Phải, Ngài cũng là của dân ngoại nữa; Vì chỉ có một Đức Chúa Trời, là Đấng làm cho kẻ chịu cắt bì được xưng công bình bởi đức tin, cũng làm cho kẻ không chịu cắt bì được xưng công bình bởi đức tin nữa. Vậy, chúng ta nhân đức tin mà bỏ luật pháp hay sao? Chẳng hề như vậy! Trái lại, chúng ta làm vững bền luật pháp.”
Hình thành luật pháp có nghĩa là chúng ta không thể được cứu khỏi tội qua việc làm của chúng ta. Chúng ta yếu đuối và là tạo vật bất toàn, nhưng sự công chính của Đức Chúa Trời làm cho chúng ta trọn vẹn trong lời của Ngài. Hãy tin vào lời công chính của Đức Chúa Trời đã cứu chúng ta. Ngay cả sau khi chúng ta được cứu khỏi tội, Chúa chúng ta tiếp tục phán với chúng ta, “Ngươi là không trọn vẹn, nhưng Ta làm cho ngươi trở nên thánh. Vì thế, ngươi sẽ được kéo gần với Đức Chúa Trời trong sự công chính của Ngài.” 
Câu 27 viết, “Vậy thì sự khoe mình ở đâu? Đã bị trừ bỏ rồi. Bởi luật pháp nào? Luật pháp của việc làm chăng? Không phải, nhưng bởi luật pháp của đức tin” Người ta nên biết luật công chính của Đức Chúa Trời mà Đức Chúa Trời đã thiết lập và tin vào luật công chính của Ngài. “Luật pháp của việc làm chăng? Không phải, nhưng bởi luật pháp của đức tin.” 
Bạn nên biết rằng chúng ta được giải phóng khỏi tội chỉ khi chúng ta tin vào sự công chính của Đức Chúa Trời và không thể được cứu bởi việc làm riêng của chúng ta. Rô-ma đoạn 3 nói về phần này qua Sứ đồ Phao-lô. “Mà làm sao! nếu một vài người trong bọn họ không thành tín, thì sự không thành tín của họ có làm cho sự thành tín của Đức Chúa Trời ra hư không sao?” Chắc chắn là không.
Một người tin vào sự công chính của Đức Chúa Trời sẽ đứng vững, nhưng người không tin vào sự công chính của Đức Chúa Trời sẽ thất bại. 
Rô-ma đoạn 3 bày tỏ sự công chính của Đức Chúa Trời cách rỏ ràng. Bạn nên nhớ rằng Đức Chúa Trời thiết lập luật của sự công chính của Ngài để làm cho những ai tin trong tư tưởng riêng của họ bị thất bại. Đức Chúa Trời cứu chúng ta khỏi tội lỗi cách hoàn toàn. Vì thế, chúng ta có thể được cứu ra khỏi tội bởi tin vào lời Đức Chúa Trời mà nó bày tỏ sự công chính của Đức Chúa Trời. Chúng ta thừa hưởng Nước Đức Chúa Trời và có sự bình an trong Ngài bởi tin vào sự công chính của Ngài. 
Những ai không tin vào sự công chính của Đức Chúa Trời không thể có sự bình an trong lòng. Câu hỏi được đặt ra là con người nhận được phước hay rủa sả là tùy thuộc vào con người có tin vào sự công chính của Đức Chúa Trời hay không. Nếu một người không tin nhận lời của sự công chính của Đức Chúa Trời, anh/chị ấy sẽ bị phán xét theo sự đoán phạt công bình của Lời Đức Chúa Trời. Sự cứu rỗi khởi nguyên từ tình yêu của Đức Chúa Trời và rồi chúng ta nhận sự cứu rỗi bởi tin vào sự công chính của Ngài. Chúng ta ngợi khen Chúa của chúng ta là Đấng ban đức tin trong sự công chính của Đức Chúa Trời. Hãy dâng lời cảm tạ vì chúng ta có cùng một đức tin với Sứ đồ Phao-lô. Chúng ta ngợi khen Chúa. 
Chúng ta cũng ngợi khen và dâng lời cảm tạ Ngài vì chúng ta được giải thoát khỏi tất cả tội lỗi bởi tin vào Báp-têm của Chúa Jêsus và huyết Ngài trên Thập tự giá. Nếu không có sự cứu rỗi này, thì đức tin, hay là hội thánh của Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ không bao giờ nhận được sự tha tội. Chúng ta thật sự tin vào sự công chính của Đức Chúa Trời với cả lòng, và xưng ra bằng miệng để được cứu rỗi. Chúng ta dâng lời cảm tạ lên Đức Chúa Trời là Đấng cứu chúng ta ra khỏi tội bởi sự công chính của Ngài.